Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ ba, 16/04/2024 | 19:03

Thứ ba, 16/04/2024 | 19:03

Chính sách

Cập nhật lúc 13:54 ngày 17/10/2017

Khuyến khích tài chính cho nghiên cứu và phát triển tác động tới tăng trưởng năng suất

Các khuyến khích thuế cho nghiên cứu và phát triển (NC&PT), một công cụ không phân biệt đối xử với mục đích giảm chi phí cận biên của các hoạt động NC&PT, thường xuất hiện ở hầu hết các nước OECD và cả ở Brazil, Trung Quốc, Liên bang Nga và Nam Phi.

Sự hỗ trợ cho NC&PT trong doanh nghiệp thông qua hệ thống thuế thường được kết hợp với một bộ chính sách hỗ trợ trực tiếp (tài trợ, cho vay, đảm bảo khoản vay…) có mục đích giải quyết những thất bại của thị trường liên quan đến đầu tư đổi mới sáng tạo. Trong khi sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia tồn tại trong hỗn hợp chính sách, thì gần đây đã có những thay đổi chung là giảm hỗ trợ trực tiếp và những khuyến khích thuế NC&PT trở nên hào phóng hơn.

Sự chuyển dịch trong thành phần hỗ trợ tài chính cho thấy trong khi các khuyến khích tài chính NC&PT hào phóng hơn sẽ kích thích thêm NC&PT trong doanh nghiệp, nhưng tác động của chúng đối với tăng trưởng năng suất ít thấy rõ. Nghiên cứu mới của OECD cũng cho thấy có ít bằng chứng rằng các nền kinh tế có khuyến khích thuế NC&PT hào phóng hơn có thể học hỏi nhiều hơi từ nhóm tiên phong toàn cầu (Andrews và Albrizio, 2015). Hơn nữa, trong khi các trợ cấp thuế NC&PT hào phóng hơn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể gia tăng năng suất cho các hãng tiên phong quốc gia hướng tới mức tiên phong toàn cầu, nhưng những tác động này không lớn bởi thực tế là những chính sách như vậy sẽ giảm quy mô so sánh của các hãng tiên phong quốc gia.

Nghiên cứu gần đây của OECD cũng nêu bật tiềm năng của những khuyến khích thuế NC&PT để thúc đẩy sự tái phân bổ và nêu bật những sự bổ sung chính sách tiềm năng giữa các chính sách đổi mới sáng tạo và chính sách khung định hình cho việc rút khỏi thị trường (ví dụ những quy định phá sản). Ví dụ, việc can thiệp chính sách như hỗ trợ thuế NC&PT chỉ thực sự hiệu quả khi các nhà hoạch định chính sách có thể khuyến khích loại bỏ những hãng hoạt động ít tiềm năng, để giải phóng các nguồn lực NC&PT (ví dụ như lao động có kỹ năng) cho những doanh nghiệp đổi mới và những doanh nghiệp mới tham gia thị trường. 

Các chương trình khuyến khích thuế NC&PT nên có tính chất hoàn trả, bao gồm việc cung cấp tín dụng hoặc cho phép khấu trừ thuế với thù lao NC&PT cốt để tránh hỗ trợ quá nhiều cho các hãng hiện hữu so với các hãng mới. Tỷ lệ trợ cấp của những sáng kiến ưu đãi thuế NC&PT thường tăng cùng với khả năng phát sinh lợi nhuận của hãng, trong khi nhiều hãng sáng tạo trẻ ở tình trạng thua lỗ trong những năm đầu của dự án NC&PT.

Những cải thiện gần đây trong việc thiết kế các kế hoạch cung cấp hỗ trợ chính phủ trực tiếp cho NC&PT có thể giải thích vì sao, trái với những nghiên cứu thực nghiệm trước đây, giờ đây có những bằng chứng rõ ràng hơn về một sự liên quan tích cực với đổi mới sáng tạo. Ví dụ, cấu trúc của hỗ trợ công trở nên tập trung nhiều hơn vào việc trợ cấp cho các hoạt động NC&PT thương mại và những tài trợ tương xứng (đối với đầu tư tư nhân) trở nên thông dụng hơn. 

Khuyến khích thuế NC&PT và tăng trưởng năng suất

Mặc dù các khuyến khích tài chính NC&PT thúc đẩy chi tiêu cho hoạt động này và mục tiêu cuối cùng là nâng cao mức tăng trưởng năng suất, nhưng chúng cũng làm phát sinh các chi phí hành chính. Các khuyến khích tài chính cho NC&PT có thể được xem như là tiền đề để có các tác động tích cực đối với tăng trưởng năng suất, do chúng dẫn đến NC&PT bổ sung trong doanh nghiệp sẽ có tác động quan trọng đối với tăng trưởng năng suất. 

Bên cạnh những đặc điểm của các kế hoạch như vậy, việc chưa tìm ra một tàc động tích cực trực tiếp của những khuyến khích tài chính cho NC&PT đối với tăng trưởng năng suất có thể phản ánh các vấn đề đo lường và nhận dạng, tuy nhiên các tác động có thể nhận thấy nếu:

- Các khuyến khích tài chính NC&PT có thể dẫn đến một sự gia tăng về giá của NC&PT (ví dụ mức lương cao của các nhà khoa học) tương phản với khối lượng NC&PT. Các uớc tính gần đây cho thấy rằng hiệu ứng lương này có thể giảm hiệu quả của các khuyến khích thuế NC&PT (về mặt khối lượng NC&PT) từ 10% đến 25%. Điều này cho thấy hiệu quả của những kế hoạch như vậy có thể được tăng cường bằng các chính sách giáo dục làm tăng nguồn cung cấp lao động có tay nghề cao. 

- Các dự án được tài trợ bởi các khuyến khích thuế NC&PT có năng suất cận biên thấp hơn trung bình. Ví dụ, bằng chứng cho thấy một tác động tích cực của các khuyến khích thuế NC&PT đối với những đổi mới sáng tạo gia tăng là mới đối với công ty, chứ không phải là mới đối với thị trường.

- Các khuyến khích thuế cho NC&PT có thể dẫn đến sự trùng lặp về NC&PT hoặc sửa lại những hoạt động không phải là NC&PT để thành đầu tư NC&PT. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy những chính sách như vậy không dẫn đến gia tăng đáng kể trong đổi tên hoạt động đầu tư.

- Các vấn đề thông tin làm hạn chế khả năng của chính phủ điều phối các giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho các dự án có tiềm năng cao nhất. 

- Các hãng được hưởng lợi nhiều nhất từ những khuyến khích tài chính NC&PT thực sự là những hãng mà NC&PT ít có thể tạo ra những hiệu ứng lan tỏa lớn. Trong khi những hãng nhỏ hơn, không nhất thiết phải là những hãng trẻ hơn, có xu hướng phản ứng nhiều hơn đối với khuyến khích thuế NC&PT so với các hãng lớn do chúng bị hạn chế tín dụng hơn, những hãng như vậy có nhiều khả năng tập trung vào các thị trường hẹp có hiệu ứng lan tỏa ít hơn.

Theo Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia

lên đầu trang