Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ sáu, 19/04/2024 | 20:58

Thứ sáu, 19/04/2024 | 20:58

Tin KHCN

Cập nhật lúc 09:29 ngày 06/12/2017

Triển vọng công nghệ Nga trong các dự án năng lượng Việt Nam

Bà Kozlova Anastasia - Giám đốc Văn phòng đại diện PJSC Power Machines tại Hà Nội.

Vào đầu những năm 2000, PM đã trở lại thị trường Việt Nam, với việc tham gia vào các dự án thủy điện Ialy và Cần Đơn. Cạnh đó là các hợp đồng cho hai nhà máy thủy điện Sê san 3, Nhiệt điện Uông Bí (mở rộng giai đoạn 2) và đặc biệt là thực hiện tổng thầu EPC dự án Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1... Để tìm hiểu thêm về những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những giải pháp thiết kế mới, những thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu - triển khai (R-D), cũng như triển vọng hợp tác của PM trên thị trường năng lượng Việt Nam trong tương lai tới, vv... Tạp chí Năng lượng Việt Nam có cuộc phỏng vấn với bà Anastasia - Giám đốc Văn phòng đại diện PJSC Power Machines tại Hà Nội.

Năng lượng Việt Nam: Thưa bà Anastasia, bà đánh giá thế nào về quá trình hợp tác của Công ty "Power Machines" với các đối tác Việt Nam trong vòng 50 năm trở lại đây, cũng như tiềm năng, cơ hội hợp tác trong tương lai mà cả hai bên cần quan tâm?

Bà Anastasia: Hợp tác giữa Công ty chế tạo máy hàng đầu của Nga là PJSC "Power Machines" (PM) với phía Việt Nam bắt đầu từ hơn nửa thế kỷ trước với việc cung cấp 3 máy phát điện cho Nhà máy Thủy điện Thác Bà, từng là nhà máy có công suất lớn nhất cả nước trong thời gian dài.

Tiếp đó là các dự án Nhiệt điện Uông Bí, Phả Lại, cũng như các dự án thủy điện Trị An, Hòa Bình.

Đầu những năm 2000 PM trở lại thị trường Việt Nam tham gia thực hiện hai dự án thủy điện Ialy và Cần Đơn. Các hợp đồng xây dựng Nhà máy Thủy điện Sê San 3 và Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí củng cố thêm thành công của Công ty. Tổng công suất các tổ máy và máy phát điện do các xí nghiệp của PM sản xuất và lắp đặt tại Việt Nam đến thời điểm hiện tại vào khoảng hơn 4500 MW (chiếm gần 15% công suất của cả nước).

Ngày nay, nếu nói đến tiềm năng hợp tác, chúng tôi có thể phát triển theo hướng cung cấp các dịch vụ dài hạn cho các nhà máy được chúng tôi xây dựng trước đây. PM sẵn sàng phát triển thủy điện (bao gồm cả thủy điện công suất nhỏ) việc mở rộng và xây mới các công trình thủy điện luôn nằm trong danh mục công việc của Công ty.

Dấu mốc quan trọng trong lịch sử hợp tác giữa PM và các đối tác Việt Nam là việc ký hợp đồng xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1, công suất 1.200 MW, hợp đồng này có hiệu lực từ năm 2015.

Năng lượng Viêt Nam: Xin bà cho biết những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và/hoặc những giải pháp thiết kế mới được PM đưa vào dự án Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1?

Bà Anastasia: Trước hết tôi xin được lưu ý rằng, đối với PM đây là lần đầu tiên thực hiện dự án EPC ở nước ngoài. Vì vậy chúng tôi hết sức cẩn trọng trong từng công đoạn và đưa ra những giải pháp hoàn toàn mới.

Ví dụ như đối với nồi hơi cho tổ máy của Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1 chúng tôi tính đến tất cả các xu hướng hiện đại về xây dựng nồi hơi cùng với kinh nghiệm lâu năm của nhà máy chế tạo nồi hơi "Krasny Kotelshchik" (TKZ) của PM.

Đặc điểm chính của nồi hơi - vận hành trong phạm vi rộng, các đặc tính nhiên liệu thiết kế và các đặc tính đặc biệt của tro, do đó đòi hỏi những yêu cầu đặc biệt về chế tạo thiết bị đốt.

Để tạo ra thiết bị đốt hiệu quả, tin cậy, các giải pháp đặc biệt và đồng bộ đã được chúng tôi áp dụng:

Thứ nhất: Các đầu đốt được chế tạo đảm bảo tốc độ yêu cầu của hỗn hợp khí (hỗn hợp nhiên liệu với không khí sơ cấp) và không khí thứ cấp với tất cả các kết hợp đặc điểm nhiên liệu.

Thứ hai: Để bảo vệ khỏi mài mòn, các đầu đốt được trang bị lớp phủ bảo vệ làm bằng các vật liệu gốm chống ăn mòn.

Thứ ba: Mức phát thải Nitrogen oxide yêu cầu được đảm bảo bằng các hoạt động trong lò (vụ nổ không khí thấp, cung cấp khí tuần hoàn) và việc lắp đặt thiết bị làm sạch Nitơ.

Sơ đồ quá trình đốt áp dụng và thiết kế cấu trúc đầu đốt được phân tích kỹ lưỡng bao gồm cả việc sử dụng các mô hình toán học.

Để nồi hơi tiến hành khởi động và thay đổi tải trọng trên các thông số trượt của hơi, một sơ đồ nhiệt đặc biệt trên màn hình buồng đốt được lập. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các bộ phận của sơ đồ khởi động như: bộ phân ly, bình chia độ (ống tụ tràn), một bơm tuần hoàn vừa và một hệ thống "xả" đặc biệt.

Mặt khác, bên trong nồi hơi còn áp dụng một loạt các cấu trúc mới (nút/đầu mối của "phễu lạnh", các điểm tựa, gia cố khác nhau…) được phát triển thông qua áp dụng mô hình toán học trạng thái kéo căng - biến dạng. Điều này cho phép tối ưu hóa khối lượng của các nút đầu mối mà không làm giảm độ tin cậy của cấu trúc.

 

Đặc biệt là tất cả các giai đoạn từ thiết kế, lựa chọn vật liệu, sản xuất và điều chỉnh được thực hiện tuân thủ hoàn toàn các tiêu chuẩn ASME.

Năng lượng Việt Nam: Bà cho rằng có triển vọng triển khai các dịch vụ cải tiến/nâng cấp đối với các nhà máy được xây dựng vào thời kỳ Xô Viết như Hòa Bình, Thác Bà, Ialy, Tri An, vv…?

Bà Anastasia: Power Machines đặc biệt quan tâm đến việc tiếp tục hợp tác và làm đối tác đối với các công trình đã đi vào vận hành kể trên. Chúng tôi có bộ phận dịch vụ, tập trung cung cấp tất cả các loại hình dịch vụ mà chúng tôi có thế mạnh như: điều chỉnh/hiệu chuẩn, kỹ thuật, nghiên cứu và chuẩn đoán.

Hiện nay trong khuôn khổ các hợp đồng dịch vụ, công ty chúng tôi sẵn sàng cung cấp các thiết bị dự phòng cho các nhà máy được xây dựng trước đây. Ví dụ như tại Nhà máy Thủy điện Hòa Bình trong năm nay một tổ máy đã được cung cấp một bánh xe công tác để thay thế, sẽ tiến hành nghiên cứu tình trạng của các thiết bị phát điện và triển vọng sẽ là cung cấp các bánh xe công tác mới cho 7 tổ máy.

Chúng tôi có nhiều kinh nghiệm trong việc hỗ trợ cho các dự án, đặc biệt là thực hiện giám sát và tiến hành sửa chữa ở mọi cấp độ khó. Nhân viên điều hành các nhà máy (Ialy, Hòa Bình, Trị An) đều ghi nhận độ tin cậy cao của thiết bị, không có phản ánh tiêu cực về hoạt động của thiết bị.

Nếu nói về việc nâng công suất tổ máy, tăng thời gian phục vụ đi kèm với việc sử dụng các vật liệu và công nghệ hiện đại, mở rộng phạm vi hoạt động thì chúng tôi đều nhìn thấy triển vọng đó ở các nhà máy thủy điện: Ialy, Hòa Bình, Trị An.

Đối với Nhà máy Thủy điện Hòa Bình có thể tiến hành mở rộng với việc lắp đặt thêm hai tổ máy, cho phép nâng công suất lên 270 MW, tăng các đặc tính chống xâm thực và độ bền. Đối với Nhà máy Thủy điện Ialy cũng có thể tiến hành mở rộng nhà máy với việc lắp đặt thêm hai tổ máy, cho phép nâng công suất lên đến 190 MW, tăng các đặc tính chống xâm thực và gia tăng độ bền.

Năng lượng Việt Nam: Ở Việt Nam, PM nói riêng và các đối tác Nga nói chung được đánh giá là có kinh nghiệm tốt trong lĩnh vực lò hơi đốt than anthracite (khó cháy). Đến nay, trong lĩnh vực thiết kế, chế tạo lò hơi dùng anthracite thì PM đã có những thành tựu/cải tiến gì?

Bà Anastasia: Các chuyên gia cho biết, anthracite là nhiên liệu khó cháy để đốt trong lò hơi. Vấn đề ở chỗ nó rất khó bắt lửa. Nguyên nhân là do trong thành phần của nó chỉ chứa hàm lượng thấp chất bay hơi - là các chất khí được giải phóng từ nhiên liệu cháy và thúc đẩy quá trình bắt lửa. Trong anthracite, các chất bay hơi này là rất ít.

Nếu như trong thành phần của than có phản ứng cháy tốt, các chất bay hơi có chứa hơn 20%, thì trong thành phần anthracite - các chất bay hơi chỉ chiếm chưa đến 8%, hơn nữa trong anthracite của Việt Nam là nhiên liệu thiết kế của nhà máy nhiệt điện Uông Bí - chất bay hơi chỉ chiếm khoảng 4%. Loại anthracite này chúng tôi cho là kém nhất. Nó không chỉ có ở Việt Nam, nó còn có ở Nga và các nước SNG, cũng nhờ đó mà các chuyên gia của chúng tôi có được những kinh nghiệm quý báu để có thể đốt cháy chúng.

Sau kết quả nhiều năm nghiên cứu, chúng tôi đã đưa ra được những giải pháp đặc biệt, tập trung vào việc đảm bảo các anthracite này có thể bắt lửa và đốt cháy. Ví dụ như, mài mỏng than đá, nhiệt độ cao của hỗn hợp nhiên liệu với không khí sơ cấp ở phía trước của lò, nhiệt độ không khí thứ cấp cao, nhiệt độ cao trong vùng đốt tích cực bên trong buồng đốt.

Các giải pháp này được áp dụng trong thiết kế lò hơi cho tổ máy công suất 300 MW tại Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí. Kinh nghiệm vận hành thiết bị thành công - đó là bằng chứng tuyệt vời cho việc áp dụng các giải pháp đã được minh chứng ở trên. Lò hơi của chúng tôi đã đốt cháy thành công anthracite, thậm chí ngay cả các anthracite kém nhất cũng có thể được đốt cháy mà không cần chiếu sáng bằng hơi hay dầu mazut trong phạm vi tải của lò hơi 100÷70%.

Một cơ sở sản xuất tua bin của Power Machines.

Năng lượng Việt Nam: Những kết quả/thành tựu đạt được của PM gần đây trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai (Research and Development)?

Bà Anastasia: Một trong các hướng chính trong chính sách khoa học - kỹ thuật của PM là chế tạo thiết bị chính và thiết bị phụ trợ cho các nhà máy nhiệt điện, điện nguyên tử và thủy lực, tương đương với các mẫu tốt nhất trên thế giới.

Công ty PM chú trọng vào việc mở rộng dây chuyền sản xuất thiết bị dựa trên việc phát triển các sản phẩm mới sáng tạo với các đặc tính kỹ thuật không thua kém các sản phẩm tương tự trên thế giới. Dựa trên các nghiên cứu bằng sáng chế, các sản phẩm của PM có mức độ bảo vệ sáng chế cao cho các giải pháp và công nghệ thiết kế mới.

Ngày nay, PM tập trung vào các dự án chế tạo các tua bin tốc độ thấp và tốc độ cao với công suất từ ​​1.255 MW trở lên; tua bin hơi và máy phát điện có công suất từ ​​660 MW trở lên cho các nhà máy nhiệt điện với các tham số siêu tới hạn; tua bin hơi công suất 100-300 MW để vận hành tại các nhà máy điện; gói nâng cấp các tua bin hơi và máy phát điện công suất 200-1.200 MW với các chỉ số kỹ thuật - kinh tế được cải thiện, bao gồm việc đưa không chỉ các thiết bị tự sản xuất mà còn các thiết bị của các nhà sản xuất khác vào hoạt động tại các nhà máy điện.

Trong lĩnh vực chế tạo máy phát hơi nước hiện đại cho các nhà máy nhiệt điện, chúng tôi đã triển khai nghiên cứu và áp dụng các phương pháp kỹ thuật hiện đại để tính toán buồng đốt và các giải pháp tiêu chuẩn để lựa chọn các chương trình đốt cho các nhóm nhiên liệu và dải công suất cho máy phát điện. Mặt khác chúng tôi lựa chọn và tối ưu hóa các sơ đồ nhiệt, các giải pháp về mạch của máy phát hơi nước với các công suất khác nhau nhằm mục đích giảm lượng chứa kim loại, sức chịu tải thủy lực, khí động học của hệ thống hơi nước, không khí.

Đáp ứng nhu cầu của thủy điện, chúng tôi nghiên cứu chế tạo các tua bin thủy lực hướng trục có hiệu suất cao cho cột áp 250-400 mét; tua bin cánh quạt có độ tin cậy cao cho cột áp 15-25 mét với đặc tính xâm thực được cải thiện. Trong phòng thí nghiệm các tua bin thủy lực, chúng tôi đã tiến hành các thử nghiệm có một không hai về lực ma sát đối với các giao điểm của các tua bin thủy lực, kết quả là áp dụng các vòng bi không bôi trơn của các thiết bị điện trên cơ sở các vật liệu mới. Hiệu quả mang lại là giảm sự xâm nhập của dầu vào nước và tăng đáng kể chỉ số môi trường của thiết bị.

Để thực hiện kế hoạch chế tạo các sản phẩm mới, PM không ngừng hoàn thiện nền tảng sản xuất của mình. Trong giai đoạn từ năm 2009 - 2011 chúng tôi đã thực hiện dự án vận hành một khu sản xuất mới gần S.Petersburg. Khu phức hợp này được thiết kế để sản xuất tua bin hơi và máy phát điện với công suất hơn 500 MW cho các nhà máy nhiệt điện và nhà máy điện hạt nhân lớn, bao gồm tua bin hơi tốc độ cao và tốc độ thấp cho các nhà máy điện hạt nhân công suất 1.200 MW với khả năng mở rộng dòng sản phẩm lên 1.800 MW (tốc độ thấp). Thiết bị công nghệ cao nhất của tổ hợp cho phép chúng tôi mỗi năm sản xuất tối đa 4 bộ tua bin hơi và máy phát điện cho nhà máy điện hạt nhân.

Năng lượng Việt Nam: Theo bà triển vọng thực hiện chiến lược makerting và bán hàng của PM ở khu vực Đông Nam Á là gì?

Bà Anastasia: Nếu nói về từng lĩnh vực cụ thể, đây là bước tiến vào thị trường năng lượng địa nhiệt Indonesia, cung cấp thiết bị cho việc thực hiện các dự án sinh khối tại Thái Lan, xây dựng các nhà máy thủy điện công suất nhỏ tại Campuchia, Myanma, Lào, Việt Nam, thực hiện dự án xây dựng các nhà máy thủy điện tại Lào, cung cấp tua bin hơi công suất thấp tại Thái Lan cho ngành công nghiệp sản xuất đường.

Tháng 9/2017 đã diễn ra Hội nghị khách hàng của Power Machines tại Hà Nội. Trên cơ sở các báo cáo và trình bày về tất cả các dòng thiết bị của chúng tôi, sự kiện này như một cuộc đối thoại sống động với các nội dung thảo luận và nhiều câu hỏi. Đối tác của chúng tôi quan tâm tới các tua bin công suất từ 600 đến 1.200 MW, kể cả các tua bin cho nhà máy điện hạt nhân, tua bin hơi với các thông số siêu tới hạn và trên siêu tới hạn, các đề xuất về cung cấp thiết bị có tuổi thọ vận hành cao. Nhiều sự quan tân cũng được dành cho các thiết bị của nhà máy thủy điện. Các chuyên gia phía Việt Nam quan tâm đến khả năng tiến hành cách điện cho các ổ đỡ, lắp đặt các phân đoạn mới của ổ đứng (ổ chặn) và ổ đỡ với lớp phủ đặc biệt. Vấn đề này cũng đã được thống nhất sẽ thảo luật trong một cuộc gặp riêng.

Hiện nay chúng tôi tiếp tục tham gia tích cực vào các triển lãm chuyên đề, các hội thảo, trình bày các báo cáo và thuyết trình tại hiện trường. Công ty chúng tôi quan tâm phát triển theo các hướng khác nhau, đặc biệt khi chúng tôi đã có tham chiếu ở khắp nơi.

Năng lượng Việt Nam: Câu hỏi cuối cùng, xin bà cho biết thông điệp cô đọng nhất mà PM muốn chuyển đến các đối tác Việt Nam là gì?

Bà Anastasia: Với câu hỏi này, tôi xin được trở lời bằng "công thức" ngắn gọn thế này: "PM = Chất lượng châu Âu + Độ tin cậy Nga + Giá hữu nghị".

Năng lượng Việt Nam: Xin cảm ơn bà Anastasia và chúc Power Machines sẽ thành công hơn nữa trên thị trường năng lượng Việt Nam!

Theo Diễn đàn năng lượng Việt Nam

lên đầu trang