[In trang]
Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu: ứng dụng khoa học công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển ngành dầu thực vật Việt Nam
Thứ tư, 10/05/2023 - 11:42
Nghiên cứu công nghiệp chế biến dầu và cây có dầu, phục vụ sản xuất và phát triển ngành nông nghiệp và công nghiệp của đất nước, góp phần thực hiện hiệu quả chính sách phát triển ngành Công Thương là nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu.
Nghiên cứu công nghiệp chế biến dầu và cây có dầu, phục vụ sản xuất và phát triển ngành nông nghiệp và công nghiệp của đất nước, góp phần thực hiện hiệu quả chính sách phát triển ngành Công Thương là nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu. 
Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu hiện là đơn vị sự nghiệp KHCN có 04 bộ môn nghiên cứu về Nông sinh học và Công nghệ chế biến gồm; 01 Trung tâm Phân tích và Kiểm định; 01 Trung tâm Tư vấn Đầu tư, Chuyển giao Công nghệ và Môi trường; 02 Trung tâm sản xuất thực nghiệm tại Bến Tre và Tây Ninh; 01 Trạm Thực nghiệm. Viện có chức năng nghiên cứu, tư vấn, thiết kế; chuyển giao công nghệ; sản xuất kinh doanh giống cây có dầu và các sản phẩm công nghệ chế biến dầu, tinh dầu; phục vụ sản xuất và phát triển ngành nông nghiệp và công nghiệp của đất nước.
Đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ chế biến dầu thực vật, tinh dầu
Ngành dầu thực vật có liên quan chặt chẽ với nhiều lĩnh vực khoa học như sinh học, nông nghiệp, hóa học chất béo và công nghệ chế biến. Một trong những vấn đề của ngành dầu thực vật Việt Nam là vùng nguyên liệu, trong đó chủ yếu liên quan đến vấn đề giống, vì vậy nghiên cứu đa dạng hóa về các giống cây có dầu là một trong những thế mạnh của Viện. Hiện nay, Viện đang được nhà nước giao thực hiện nhiệm vụ thường xuyên thu thập, bảo tồn và lưu giữ nguồn gen, bao gồm 51 giống dừa, 179 giống lạc, 93 mẫu giống vừng, 111 mẫu giống đậu tương, trong đó có nhiều giống nổi bật với các đặc tính quý hiếm như năng suất, hàm lượng dầu cao, chống chịu sâu bệnh và thích nghi với các điều kiện biến đổi khí hậu, nhiễm mặn cao, khô hạn, gió bão,...
Từ tập đoàn nguồn gen cây có dầu với hơn 500 mẫu giống, sau nhiều năm nghiên cứu, Viện đã chọn lọc và lai tạo được nhiều giống cây có dầu có năng suất cao, chất lượng tốt được công nhận là giống Quốc gia hoặc giống sản xuất thử. Đặc biệt, gần đây Viện đã nghiên cứu thành công công nghệ nuôi cấy phôi giống dừa Sáp với tỷ lệ thành công trên 60%, hằng năm cung hàng nghìn cây giống dừa Sáp nươi cấy phôi cho các địa phương trong cả nước.
Sản phẩm giống dừa Sáp từ nuôi cấy phôi của Viện có tỷ lệ quả đặc ruột trên buồng lên tới hơn 80%, đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân trồng dừa. Tiếp nối thành công trên, Viện bước đầu nghiên cứu giống dừa Sáp thơm và đã chọn ra được một số cặp lai có đặc tính quý, cơm dừa vừa có sáp vừa thơm mùi lá dứa (lai tạo giữa dừa Sáp x dừa Dứa). Ngoài ra, một số giống lạc, vừng, đậu tương có năng suất và hàm lượng dầu cao cũng đã được Nhà nước công nhận và áp dụng rộng rãi trong sản xuất. ​
Công nghệ sinh học có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam. Nhằm đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị của các cây có dầu, tinh dầu cũng như tìm kiếm các nguồn nguyên liệu dầu mới, trong thời gian qua, Viện đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm trong chế biến các sản phẩm từ cây có dầu, tinh dầu và các phụ phẩm của công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến. Có thể kể đến một số sản phẩm tiêu biểu như sản phẩm nước dừa tươi đóng chai bằng công nghệ lọc màng; rượu, đường, siro từ mật hoa dừa; bột sữa dừa sáp,…Trong đó, nhiều sản phẩm đã được Viện phối hợp với doanh nghiệp thương mại hóa và ngày càng có chỗ đứng trên thị trường. Bên cạnh những sản phẩm kể trên, Viện còn làm chủ nhiều quy trình công nghệ và sẵn sàng chuyển giao cho các đơn vị có nhu cầu. Một số quy trình công nghệ chế biến tiêu biểu có thể kể đến như: công nghệ sản xuất chế phẩm vi sinh cố định đạm; công nghệ bảo quản quả dừa tươi phục vụ xuất khẩu; công nghệ chế biến sữa giàu hoạt tính sinh học từ hạt bí ngô; quy trình sản xuất màng mỏng BC từ nước dừa già; quy trình chế biến bột sữa dừa sáp; quy trình chiết tách Galactomannan từ dừa sáp; cùng các công nghệ chế biến dầu (hạt chùm ngây, dầu hạt dưa hấu, dầu hạt mắc ca…) và các loại tinh dầu thiên nhiên. Ngoài ra, Viện còn tận dụng phụ phẩm của công nghệ sau thu hoạch như bã thải quả thanh long, hạt jatropha, vỏ quả ca cao… để sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp bền vững. Hiện Viện đã có hai loại phân bón hữu cơ IOOP-1, IOOP-2 được Cục Bảo vệ Thực vật - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận và cho phép lưu hành tại Việt Nam.
Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế
Với chủ trương tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh giao lưu nghiên cứu khoa học, trong những năm qua, Viện đã tham gia nhiều chương trình hợp tác với các viện nghiên cứu quốc tế. Hợp tác với Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Yoengnam (YARI), thuộc Viện Khoa học cây trồng quốc gia Hàn Quốc để đào tạo nhiều cán bộ đầu ngành trong các lĩnh vực nghiên cứu liên quan và thu thập nguồn gen các giống cây có dầu có những đặc tính quý.
Viện đã hợp tác với Viện Dầu cọ Malaysia PORIM (nay là MPOB) để học tập kinh nghiệm về trồng, chế biến và phân tích các sản phẩm từ dầu cọ; Hợp tác với Viện Tài nguyên Di truyền thực vật quốc tế IPGRI, thực hiện dự án nguồn gen cây dừa với tổ chức COGENT, giúp Viện có thêm kinh nghiệm trong công tác lai tạo và sản xuất các giống dừa mới, phát triển kỹ thuật trồng xen, nuôi xen trong vườn dừa.
Từ dự án nuôi cấy phôi dừa do Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế của Úc (ACIAR) tài trợ, kết hợp với các dự án khác trong nước, Viện đã nghiên cứu thành công và phát triển sản xuất giống dừa Sáp bằng phương pháp nuôi cấy phôi có năng suất và chất lượng vượt trội.
Hợp tác của Viện trong giai đoạn vừa qua có kết quả khá tốt với nhiều hợp đồng và biên bản ghi nhớ đã được ký kết thành công với các tổ chức trong và ngoài nước. Có thể kể đến Hợp đồng với Viện quốc tế nghiên cứu cây trồng trên vùng nhiệt đới bán khô hạn (ICRISAT) (2014); Hợp đồng với Bộ KH&CN về Nghị định thư với Hoa Kỳ (2014-2016); Hợp đồng với Nhật Bản (JICA) (2014, 2015, 2016); Hợp đồng với công ty FINE – Anh (2016); Biên bản ghi nhớ với Đại học KH&KT Pingtung – Đài Loan (2015); Biên bản ghi nhớ với Đại học Plovdiv – Bungary (2016); Biên bản ghi nhớ với Đại học Văn Lang về hợp tác KHCN (2019); Biên bản ghi nhớ với Đại học Nông Lâm Tp. HCM về hợp tác KHCN (2019); Biên bản ghi nhớ với Công ty Cổ phần hữu cơ VGES (2022); Biên bản ghi nhớ với Công ty Cổ phần Kinh doanh tổng hợp và Dạy nghề thương binh 27/7 (2023). Đặc biệt, với các hợp tác theo nghị định thư, Viện có cơ hội đồng hành nghiên cứu khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Chương trình hợp tác của Viện với Hoa Kỳ là một trong những ví dụ điển hình cùng nghiên cứu, phát triển công nghệ sản xuất dầu từ vi tảo. Hợp tác quốc tế không những tăng cường kinh phí cho nghiên cứu, chuyển giao mà còn là kênh cung cấp thông tin khoa học công nghệ và đào tạo nhân sự rất hiệu quả.
Hướng tới một quy hoạch bền vừng cho ngành dừa
Đồng bằng Sông Cửu Long hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra nhanh hơn dự kiến, gây ra nhiều hiện tượng khí hậu cực đoan, bão tố, lũ lụt xảy ra thường xuyên và tàn phá nghiêm trọng hơn, đồng thời cũng xuất hiện nhiều loại bệnh lạ hơn.
Bên cạnh đó, các hoạt động ở thượng nguồn sông Mê Kông cũng đã gây ra thay đổi về mô hình dòng chảy, giảm tải lượng trầm tích, giảm nguồn lợi thủy sản và xâm nhập mặn sâu hơn. Điều này đòi hỏi công tác quy hoạch đất sản xuất, cơ cấu cây trồng phải thay đổi để thích nghi với biến đổi khí hậu.
Từ những lý do trên, cây dừa trở thành cây trồng tiềm năng nhờ khả năng thích nghi tốt với biến đổi khí hậu. Trong điều kiện của khô hạn, bão tố, đất cát nghèo dinh dưỡng của miền Trung hay lũ lụt, mặn xâm nhập, nhiễm phèn ở Đồng bằng Sông Cửu Long thì cây dừa vẫn thích nghi và phát triển tốt. Hiện nay, Viện đã nhân giống được hơn 500 cây dừa Ta có khả năng chịu được xâm nhập mặn vào mùa khô, với độ mặn trên 8%, góp phần cung cấp cây giống dừa chịu mặn cho sản xuất.
Tuy nhiên, hiện nay, cây dừa cũng như các cây có dầu khác không phải là cây trồng chính của Việt Nam chưa được quy hoạch vùng trồng cụ thể. Vì vậy, phần lớn dừa được người dân trồng tự phát theo nhu cầu thị trường, dẫn đến cây bị thụ phấn chéo, lai lẫn tự nhiên, năng suất thấp, cây già cỗi, sâu bệnh, chuỗi cung ứng rời rạc, chất lượng giảm sút và cơ sở hạ tầng yếu kém.
Giải pháp cho các vấn đề trên là cần thực hiện quy hoạch vùng trồng cho các loại cây, đặc biệt là cây dừa với các giống dừa khác biệt; quy hoạch vùng trồng dừa gắn liền với nhà máy chế biến. Cây dừa có chu kỳ kinh doanh kéo dài đến vài chục năm, tất cả các bộ phận của quả dừa đều sử dụng được: chế biến cơm dừa nạo sấy, các sản phẩm thực phẩm, dầu dừa tinh khiết, dược phẩm, đồ thủ công mỹ nghệ v.v…
Với lợi thế nghiên cứu thành công giống dừa Sáp nhờ nuôi cấy phôi và đã tuyển chọn 6 giống dừa được Nhà nước công nhận là giống quốc gia, 3 giống dừa lai công nhận sản xuất thử, Viện rất mong muốn phối hợp với địa phương triển khai xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, thúc đẩy việc hình thành những cánh đồng lớn, thực hiện thành công phương châm liên kết giữa các nhà: nhà nước – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học – nhà nông,  tạo nền tảng cho việc xây dựng các thương hiệu, các chứng nhận, truy xuất nguồn gốc. Có như vậy, ngành sản xuất dừa mới thực sự phát triển xứng tầm với tiềm năng của nó.
Ứng dụng, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, Viện đã có các sản phẩm được thương mại hóa như: Sản phẩm dầu hạt thanh long, dầu vừng tươi, đã chào bán và đang cung cấp cho thị trường cả nước; giống dừa Sáp nuôi cấy phôi (NCP) và chuyển giao công nghệ trồng dừa Sáp NCP cho Sở Khoa học Công nghệ (KHCN) tỉnh Trà Vinh; Chuyển giao 2 giống vừng, 2 quy trình canh tác vừng và 3 mô hình cho Sở KHCN tỉnh Đồng Tháp. Tuyển chọn được 1 giống lạc mới và chuyển giao cho Viện Di truyền Nông nghiệp; Tuyển chọn được 3 giống lạc có năng suất cao, chất lượng tốt, các biện pháp kỹ thuật và 6 mô hình cho Sở KHCN tỉnh Bình Thuận để ứng dụng vào sản xuất. Hoàn thiện công nghệ sản xuất dầu hạt thanh long bằng phương pháp ép lạnh, đào tạo cán bộ vận hành cho Công ty TNHH Một thành viên Sản xuất rượu Thanh Long cũng như dự kiến phối hợp với Công ty thương mại hóa một số sản phẩm mỹ phẩm như son dưỡng môi, nước hoa khô.
Viện cũng đang triển khai hợp đồng với Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Bến Tre (Betrimex) thực hiện chương trình đào tạo và tư vấn trồng dừa, xây dựng mô hình giống mới nhằm giúp Công ty hoàn chỉnh phương án sản xuất hàng hóa theo chuỗi liên kết khép kín từ nguyên liệu đến chế biến phục vụ xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Châu Âu, Châu Mỹ. 
Viện đã xuất bản cuốn sách “Cây dừa Kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc và chế biến” trong đó bao gồm những thành tựu nghiên cứu nhiều năm về cây dừa của Viện.
Viện cũng hợp tác với Công ty Cổ phần Đầu tư Xuất nhập khẩu TTP về phân phối sản phẩm tinh dầu. Nhờ vậy, các sản phẩm KH&CN như: dầu dừa tinh khiết; dầu vừng chất lượng cao; rượu cao độ, rượu vang, nước giải khát, đường và siro từ mật hoa dừa; tinh dầu thiên nhiên (chúc, bưởi, tràm trà,…), các sản phẩm tinh dầu xông, dầu massage có chất lượng cao, không sử dụng hóa chất và các sản phẩm từ thiên nhiên khác đã được người tiêu dùng ưa chuộng.
Bên cạnh đó, Viện đã thành lập hai showroom để giới thiệu các thành tựu nghiên cứu và trưng bày sản phẩm chế biến từ cây có dầu, tinh dầu các loại tại 171 Hàm Nghi, Quận 1, Tp. HCM và 96 Lý Tự Trọng, Tp. Vũng Tàu nhằm giới thiệu đến người tiêu dùng và các doanh nghiệp, chuyển giao nhanh các sản phẩm nghiên cứu khoa học và phục vụ nhu cầu thị trường.
Viện đã tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hoạt động và nâng cao năng lực của Trung tâm Phân tích và Kiểm định, từng bước thực hiện tốt các dịch vụ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực kiểm tra, kiểm định chất lượng, an toàn thực phẩm đối với dầu thực vật, nguyên liệu dầu thực vật, sản phẩm từ dầu, sản phẩm thực phẩm. Hiện Phòng thử nghiệm Hóa và Vi sinh của Trung tâm được Văn phòng công nhận chất lượng BoA cấp chứng chỉ phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025: 2017.
Hoạt động khoa học và công nghệ là đòn bẩy quan trọng nhằm khuyến khích hoạt động đổi mới, sáng tạo của các doanh nghiệp ngành Công Thương. Trong thời gian tới, Viện sẽ tiếp tục tăng cường các hoạt động khoa học công nghệ, hoàn thiện nguồn nhân lực, nỗ lực cải tiến và phát triển toàn diện, từng bước chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm phát huy truyền thống, tận dụng tối đa nguồn nhân lực và cơ sở vật chất hiện có phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, là đơn vị nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực dầu và cây có dầu ở Việt Nam./.
Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu