Đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Thứ ba, 12/02/2019 - 14:44
Thế giới hiện đang đối diện với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra có tác động mạnh mẽ, toàn diện tới nền kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội.
Thế giới hiện đang đối diện với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra có tác động mạnh mẽ, toàn diện tới nền kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội. Đánh giá về những cơ hội và thách thức của CMCN 4.0, chúng ta cần phải có sự thống nhất nhận thức đối với cuộc cách mạng này. Sự thống nhất đó thể hiện ở việc hiểu đúng thực chất cuộc CMCN 4.0 với các cuộc CMCN trước đó. Nhận thức đúng, tận dụng đúng trọng tâm, trọng điểm sẽ vượt lên, nếu không sẽ bị tụt lại. Cần phải có sự thống nhất trong chiến lược hành động và tổ chức hành động. Việc ứng phó với cuộc cách mạng này đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn diện và đồng bộ liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân từ khu vực công và tư tới giới khoa học và toàn xã hội. Vì tất cả các cuộc cách mạng đều được dẫn dắt bởi khoa học công nghệ, do đó ngành Khoa học và Công nghệ cần đi đầu trong đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực tiếp cận nhằm thích ứng nhanh với cuộc CMCN 4.0.
CMCN 4.0 kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong.
Nhận diện cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc CMCN 4.0 sẽ làm thay đổi căn bản cách thức con người sống, làm việc và quan hệ hợp tác cùng nhau. Quy mô, phạm vi ảnh hưởng, độ phức tạp và sự chuyển dịch của xã hội từ cuộc cách mạng này rất to lớn, tạo ra cho mỗi quốc gia cơ hội và thách thức mang tính tích hợp, toàn diện, khác hẳn so với 3 cuộc CMCN lần thứ nhất từ năm 1784 (sử dụng máy hơi nước trong quá trình sản xuất); cách mạng công nghiệp lần thứ hai từ năm 1870 (sử dụng điện năng phục vụ sản xuất hàng loạt); cách mạng công nghiệp lần thứ ba từ năm 1969 (liên quan tới công nghệ điện tử, bán dẫn và công nghệ thông tin phục vụ việc tự động hóa quá trình sản xuất).
Năm 2011, tại Hội chợ Công nghệ Hannover ở Cộng hòa Liên bang Đức, thuật ngữ Công nghiệp 4.0 lần đầu tiên được đưa ra. Từ đó, đến nay, thuật ngữ Công nghiệp 4.0 được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Bản chất của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; Trong đó, dự báo những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy. Cuộc CMCN 4.0 là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật (IoT) và điện toán đám mây. Cuộc CMCN 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các nhà máy thông minh hay nhà máy số. Trong các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực và thông qua hệ thống kết nối Internet (IoS), người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này.
CMCN 4.0 tạo ra nhiều thách thức lớn tới sự phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, sự phân cực lực lượng lao động ngày càng lớn với sự dịch chuyển lực lượng lao động theo hướng nâng cao chất lượng và trình độ nhân lực. Hệ quả là thu hẹp dần các công việc có kỹ năng thấp hoặc trung bình, thay thế bởi quá trình tự động hóa, làm dư thừa lao động.
Thứ hai, chênh lệch thu nhập ngày càng lớn giữa thiểu số ở tốp trên so với phần lớn lực lượng lao động còn lại. Phần lớn lợi ích sẽ thuộc về nhóm thiểu số ở tốp trên. Xu thế này đặt những quốc gia đang phát triển trước những rủi ro lớn.
Thứ ba, tính kết nối vạn vật, mọi lúc, mọi nơi do CMCN 4.0 đưa lại, một mặt tạo lợi thế trong thông tin, lưu thông,… nhưng cũng tăng rủi ro bởi hoạt động khó kiểm soát trên không gian mạng.
Để tiếp cận CMCN 4.0 yêu cầu đặt ra cho tất cả các ngành, lĩnh vực là:
(1) Chất lượng, trình độ nguồn nhân lực ở cả cấp lãnh đạo và người lao động, khả năng hấp thụ công nghệ, trình độ chuyên môn và các kỹ năng mềm,…;
(2) Cơ sở vật chất, trình độ công nghệ, công cụ sản xuất và sản phẩm thông minh;
(3) Quy trình và phương thức sản xuất. CMCN 4.0 xây dựng quy trình sản xuất một cách thông minh, độ linh hoạt cao dựa trên các quy trình tự vận hành, khả năng chia sẻ dữ liệu và độ tin cậy cao thông qua cơ chế bảo mật an ninh mạng.
Ngành Khoa học và Công nghệ và các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0
Để sẵn sàng với CMCN 4.0, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 61/NQ-CP tập trung chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai các giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0; Trong đó, trọng tâm tập trung thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với phát triển doanh nghiệp tư nhân. Trước đó, ngày 4/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Bên cạnh đó, Chính phủ còn yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương xây dựng Nghị định hướng dẫn Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi), tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động chuyển giao công nghệ; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; nâng cao trình độ, tiềm lực công nghệ quốc gia. Đứng trước những cơ hội và thách thức của CMCN 4.0, đối với ngành KH&CN tỉnh nhà, để có thể đi đầu trong đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực tiếp cận nhằm thích ứng nhanh với cuộc CMCN 4.0 chúng ta cần tập trung vào các nhóm giải pháp sau:
1. Tập trung nâng cao trình độ nguồn nhân lực ở cấp độ chiến lược quản lý và cấp độ vận hành các hoạt động hằng ngày của doanh nghiệp.
2. Đẩy mạnh việc sản xuất, cung cấp ra thị trường những sản phẩm sáng tạo dựa trên cơ sở vật chất hiện đại. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng, cần có lộ trình, lựa chọn ưu tiên cho vài lĩnh vực đầu tư để chuyển đổi căn bản từ dây chuyền lạc hậu lên phiên bản hiện đại. Các doanh nghiệp phải ưu tiên tính hiệu quả trong đầu tư vào những dây chuyền công nghệ mũi nhọn, tránh đầu tư dàn trải. Sản phẩm thông minh về cơ bản có được nhờ vào chất lượng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật và nghiên cứu thị trường.
3. Đổi mới mô hình kinh doanh và phương thức sản xuất, yếu tố đầu tư hạ tầng, trang thiết bị cho mô hình kinh doanh mới. Yếu tố quyết định ở đây vẫn là con người, cụ thể hơn là năng lực đổi mới sáng tạo.
4. Đặc biệt chú trọng vấn đề an ninh mạng và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong thời đại CMCN 4.0, vấn đề bảo mật trở nên quan trọng hơn gấp nhiều lần, tránh các yếu tố gây rủi ro từ công nghệ thông tin gây hại trong quá trình sản xuất, và bảo vệ bí quyết công nghệ. Chu trình sáng tạo và bảo vệ không ngừng được tạo ra một cách linh hoạt theo xu hướng của thị trường và phản ứng của đối thủ cạnh tranh.
5. Thúc đẩy mạnh mẽ ứng dụng khoa học công nghệ. Khi cơ cấu của các ngành công nghiệp thay đổi với hàng loạt công nghệ, quy trình và phương pháp quản lý mới, giá trị thặng dư mang đến cho doanh nghiệp sẽ tạo ra bởi nguồn lực tri thức cao. Nguồn lực tri thức sẽ trở thành giá trị cốt lõi của nền sản xuất chứ không phải là nguồn vốn. Các doanh nghiệp tự xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển, hoặc tìm đến các nhà nghiên cứu để đặt hàng các sản phẩm có chất lượng và hàm lượng khoa học cao, đáp ứng nhu cầu bức thiết của các doanh nghiệp, nhà khoa học cởi mở hơn và thử sức với thị trường.
3. Đổi mới mô hình kinh doanh và phương thức sản xuất, yếu tố đầu tư hạ tầng, trang thiết bị cho mô hình kinh doanh mới. Yếu tố quyết định ở đây vẫn là con người, cụ thể hơn là năng lực đổi mới sáng tạo.
4. Đặc biệt chú trọng vấn đề an ninh mạng và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong thời đại CMCN 4.0, vấn đề bảo mật trở nên quan trọng hơn gấp nhiều lần, tránh các yếu tố gây rủi ro từ công nghệ thông tin gây hại trong quá trình sản xuất, và bảo vệ bí quyết công nghệ. Chu trình sáng tạo và bảo vệ không ngừng được tạo ra một cách linh hoạt theo xu hướng của thị trường và phản ứng của đối thủ cạnh tranh.
5. Thúc đẩy mạnh mẽ ứng dụng khoa học công nghệ. Khi cơ cấu của các ngành công nghiệp thay đổi với hàng loạt công nghệ, quy trình và phương pháp quản lý mới, giá trị thặng dư mang đến cho doanh nghiệp sẽ tạo ra bởi nguồn lực tri thức cao. Nguồn lực tri thức sẽ trở thành giá trị cốt lõi của nền sản xuất chứ không phải là nguồn vốn. Các doanh nghiệp tự xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển, hoặc tìm đến các nhà nghiên cứu để đặt hàng các sản phẩm có chất lượng và hàm lượng khoa học cao, đáp ứng nhu cầu bức thiết của các doanh nghiệp, nhà khoa học cởi mở hơn và thử sức với thị trường.
6. Tích cực thúc đẩy việc triển khai hiệu quả Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia tới năm 2025”. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ, ban hành ngày 16-5-2016, về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04-5-2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 đối với tất cả các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương; trong đó xác định xây dựng kế hoạch và các nhiệm vụ trọng tâm để triển khai phù hợp với xu thế phát triển của cuộc CMCN 4.0; xây dựng nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh; rà soát, lựa chọn phát triển sản phẩm chủ lực, sản phẩm cạnh tranh chiến lược của tỉnh, của quốc gia bám sát các công nghệ sản xuất mới, tích hợp những công nghệ mới để tập trung đầu tư phát triển./.
Trần Ngọc Lân, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Trị