Bảng 3. Kinh nghiệm thực hiện mô hình KTTH của các nước điển hình. Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Bảng 2 và 3 cho thấy, mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau,nhưng tựu chung các nước vẫn thực hiện KTTH theo quy trình 4 giai đoạn: (1) Sản xuất (bao gồm thiết kế và thực hiện sản xuất), (2) Tiêu dùng, (3) Quản lý chất thải và (4) Chuyển từ chất thải thành tài nguyên.
5. Một số định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
Để thực hiện KTTH phù hợp với xu hướng chung của thế giới, Việt Nam sẽ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ nâng cao nhận thức đến hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Bởi theo kinh nghiệm các nước nêu trong Bảng 2 và 3, KTTH hiện nay đã phát triển và không chỉ dừng lại ở việc xem tận dụng vật liệu, mà được xem xét toàn diện theo 4 giai đoạn như trình bày ở trên. Từ thực trạng gia tăng chất thải tại Việt Nam và các phân tích dựa trên kinh nghiệm quốc tế ở trên, nhóm nghiên cứu đề xuất một số gợi ý chính sách nhằm thúc đẩy thực hiện KTTH tại Việt Nam.
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ cho phát triển nền KTTH. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường, quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất, nhà phân phối trong việc thu hồi, phân loại và tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn về công nghệ, thúc đẩy phát triển thị trường trao đổi sản phẩm phụ, sản phẩm thải bỏ để kết nối chuỗi giữa thải bỏ - tái chế - tái sử dụng để rác thải, chất thải trở thành tài nguyên thứ cấp trong hệ thống vòng kín của chu trình sản xuất mới; quản lý dự án theo vòng đời; thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường tương đương với nhóm các nước tiên tiến trong khu vực.
Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích hình thành, phát triển các mô hình KTTH; hoàn thiện và ban hành các cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ thúc đẩy công nghiệp và công nghệ môi trường, trong đó có công nghiệp tái chế; DN phải là động lực trung tâm, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức và từng người dân tham gia thực hiện. Việt Nam có thể cân nhắc đưa cả hai cách tiếp cận thực hiện KTTH của quốc tế vào lộ trình của mình, đó là: (i) cách tiếp cận theo nhóm ngành, sản phẩm, nguyên liệu hoặc vật liệu (Group of sectors, products, materials and substances) - có thể gọi tắt là tiếp cận theo loại vật liệu; (ii) cách tiếp cận theo quy mô kinh tế (Systemic economy-wide implementation): thành lập các không gian địa lý như KCN, cụm công nghiệp, các thành phố kiểu mẫu, những hoạt động kinh doanh và sản xuất trong các không gian này được thiết kế sao cho kết nối với nhau thành các vòng tuần hoàn, sau đó nhân rộng các mô hình thành công.
Thứ ba, xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế chiều sâu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, áp dụng khoa học công nghệ vào các ngành, đặc biệt là xử lý rác thải để tái tạo nguyên liệu mới; quy định lộ trình thay thế các nhiên liệu, sản phẩm sử dụng nguyên liệu nguy hại, sản phẩm sử dụng một lần bằng các nhiên liệu, nguyên liệu thân thiện với môi trường, sản phẩm sử dụng nhiều lần, kéo dài thời gian sử dụng hữu ích của sản phẩm.
Thứ tư, điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, thủy điện; kiểm soát, thu hút có chọn lọc dự án đầu tư trên cơ sở xem xét các yếu tố về quy mô sản xuất, công nghệ sản xuất, kỹ thuật môi trường và vị trí thực hiện dự án; xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ dựa trên các tiêu chí tiết kiệm hiệu quả năng lượng, giảm thiểu chất thải.
Thứ năm, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về KTTH. Đây là cơ sở dữ liệu quan trọng để phục vụ cho việc quản lý và điều chỉnh việc thực hiện KTTH. Thực tế là các nước hàng đầu về KTTH trên thế giới đều có hệ thống cơ sở dữ liệu rất tốt về KTTH, trong khi đó ngay cả những dữ liệu cơ bản như ô nhiễm và tỉ lệ chế chất thải rắn qua các năm thì Việt Nam vẫn chưa thống kê được.
Thứ sáu, thực hiện KTTH cần gắn liền với phát triển công nghệ, kinh tế số và cách mạng công nghiệp 4.0. Đổi mới công nghệ là cốt lõi, là yếu tố quan trọng quyết định thành công khi áp dụng mô hình KTTH.
Thứ bảy, xây dựng Chương trình giáo dục phổ cập kiến thức KTTH và tiêu dùng thông minh, nhằm nâng cao nhận thức mọi người về trách nhiệm của họ đối với các sản phẩm trong suốt vòng đời của chúng.
6. Kết luận
Chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang KTTH đang là xu thế chung của cộng đồng thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Đó là cách tốt nhất để phá vỡ mối liên hệ lâu nay giữa tăng trưởng kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường, hay một cách khác, không còn phải đánh đổi giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, thực hiện được đồng thời nhiều mục tiêu của phát triển bền vững. Để thực hiện được định hướng này đòi hỏi phải có sự nỗ lực của mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt DN là động lực trung tâm, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt và cộng đồng tham gia thực hiện để thay đổi cả về nhận thức và hành vi của toàn xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ekins, P., Hughes, N. (2017). Resource Efficiency: Potential and Economic Implications. A Report of the International Resource Panel. UNEP, March 2017.
2. Kaza, Silpa; Yao, Lisa C.; Bhada-Tata, Perinaz; Van Woerden, Frank, (2018). What a Waste 2.0 : A Global Snapshot of Solid Waste Management to 2050. Urban Development. World Bank, Washington, DC.
3. WEF, (2020). The world needs a circular economy. Help us make it happen. https://www.weforum.org/agenda/2020/01/the-world-needs-a-circular-economy-lets-make-it-happen/
4. Cingiz, Kutay & Wesseler, Justus. (2019). Opportunities and the Policy Challenges to the Circular Agri-Food System. 10.1007/978-3-030-28642-2_16.
5. K. E. Boulding (1966). The Economics of the Coming Spaceship Earth, in Environmental quality in a growing economy: Essays from the sixth RFF forum, H. Jarrett Ed. New York: RFF Press, pp. 3-14.
6. Stahel, Walter & Reday-Mulvey, Geneviève. (1981). Jobs for tomorrow: The potential for substituting manpower for energy. report to DG V for Social Affairs. Commission of the EC, Brussels, 1981.
7. UNIDO, (2017). Circular Economy, Vienna, Austria . Available at: https://www.unido.org/sites/default/files/2017- 07/Circular_Economy_UNIDO_0.pdf/
8. Vasileios Rizos, Katja Tuokko and Arno Behrens (2017). The Circular Economy: A review of definitions, processes and impacts. CEPS Research Report. April 2017.
9. Yourmatter (2020), Circular Economy: Definition, Principles, Benefits and Barriers.. https://youmatter.world/en/definition/definitions-circular-economy-meaning-definition-benefits-barriers/
10. Phạm Nguyễn Ngọc Anh (2018). Tác động của các khu công nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
11. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2017). Báo cáo môi trường quốc gia 2017.
12. Bộ Tài nguyên và Môi trường, (2019), Báo cáo hiện trạng tài nguyên quốc gia 2019. Chuyên đề quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
13. Trương Thị Mỹ Nhân (2019), Kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế tuần hoàn và các điều kiện để chuyển đổi ở Việt Nam. Tạp chí Tài chính online, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/kinh-nghiem-xay-dung-nen-kinh-te-tuan-hoan-va-cac-dieu-kien-de-chuyen-doi-o-viet-nam-317345.html
14. Nguyễn Hoàng Nam & Nguyễn Trọng Hanh, (2019). Thực hiện kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý chính sách cho Việt Nam. VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 68-81.DOI 35. 68-81. 10.25073/2588-1108/vnueab.4277.
Circular economy: International experience and development orientations of Vietnam Nguyen Khac Hai 1 Duong Lam Bao Linh 1 Ngo Thi Thu Ha 1 Assoc.Prof.Ph.D Tran Thi Bich Ngoc 2 1 Student, School of Economics and Management, Hanoi University of Science and Technology 2 School of Economics and Management, Hanoi University of Science and Technology ABSTRACT: Many developing countries, including Vietnam, have so far mainly relied on the traditional growth model of linear economy. The ecological disadvantage of the linear economy is that the production of goods is at the expense of the productivity of our ecosystems and this process causes serious environmental pollution. Vietnam is developing a circular economy in order to cooperate with the international community in solving climate change and other issues relating to the economic growth and environmental protection. This paper is expected to provide a clear understanding about the exhaustion of natural resources and the important role of circular economy. This paper also presents experience of some countries in creating circular-economy based growth models for sustainable green development. Keywords: circular economy, green development, waste, recycling, development policy. |
NGUYỄN KHẮC HẢI, DƯƠNG LÂM BẢO LINH, NGÔ THỊ THU HÀ
Sinh viên chuyên ngành quản lý công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
PGS. TS TRẦN THỊ BÍCH NGỌC
Viện Kinh tế và Quản lý, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 9, tháng 4 năm 2021]