Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ sáu, 29/03/2024 | 06:29

Thứ sáu, 29/03/2024 | 06:29

Chính sách

Cập nhật lúc 10:08 ngày 11/08/2021

Những khó khăn, vướng mắc trong thực thi các chính sách khoa học và công nghệ của ngành Công Thương (Phần 2)

Bên cạnh những điểm thuận lợi, quá trình thực thi chính sách, quy định pháp luật về KH&CN và đổi mới sáng tạo của Bộ Công Thương đã cho thấy những điểm chưa phù hợp với thực tiễn, chủ yếu do nhiều khó khăn, vướng mắc.sự thiếu thống nhất, đồng bộ giữa các quy định về hoạt động KH&CN, các tổ chức KH&CN với các quy định có liên quan, dẫn tới nhiều chính sách ban hành mang ý nghĩa đột phá nhưng trên thực tế triển khai thì gặp 
(Tiếp theo phần 1)
Chính sách về đầu tư cho KH&CN của doanh nghiệp
Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính đã ban hành thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC ngày 28 tháng 6 năm 2016 hướng dẫn về nội dung chi và quản lý Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Theo đó, hàng năm doanh nghiệp nhà nước sẽ trích lập từ 3 ÷ 10% thu nhập trước thuế để hình thành Quỹ phát triển KH&CN. Đây là một quy định có tính đột phá nhằm khuyến khích hoạt động KH&CN tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế việc triển khai chính sách này không được như kỳ vọng, nhiều tập đoàn, doanh nghiệp trong ngành đã thành lập Quỹ phát triển KH&CN, nhưng việc sử dụng rất hạn chế. Một số nguyên nhân cụ thể là:
Hàng năm doanh nghiệp nhà nước sẽ trích lập từ 3 ÷ 10% thu nhập trước thuế để hình thành Quỹ phát triển KH&CN. Ảnh minh họa. Nguồn: internet
- Phần trích lập quỹ trước thuế hình thành nên Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, về bản chất có thể được hiểu là phần hỗ trợ của Nhà nước, tương đương với thuế TNDN doanh nghiệp phải đóng để cùng doanh nghiệp hình thành nên nguồn lực ưu tiên cho hoạt đông nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, với các quy định hiện tại, sẽ không thực sự khuyến khích việc doanh nghiệp sử dụng nguồn Quỹ này cho mục tiêu phát triển, tăng cường tiềm lực cũng như ứng dụng đổi mới công nghệ do những vấn đề chủ yếu sau:
+ Tài sản hình thành từ việc triển khai các nhiệm vụ, dự án KH&CN sử dụng Quỹ KH&CN của doanh nghiệp sau khi kết thúc nhiệm vụ, khi đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh phải được hạch toán vào mục thu nhập khác của doanh nghiệp, phải đóng thuế TNDN trước khi được đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hạch toán theo quy định. 
+ Quy định về chi tiêu và quản lý, sử dụng nguồn Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc: các quy định về chi tiêu và quy trình quản lý cơ bản được xây dựng dựa trên quy định về chi tiêu và quản lý các nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN với quy trình phức tạp, không phù hợp với phương thức hoạt động và nhu cầu nội tại của doanh nghiệp. Với các quy định hiện tại, khả năng đáp ứng của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn.
+ Doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán toàn bộ đối với các nội dung, nhiệm vụ, dự án sử dụng Quỹ KH&CN.
- Cách tiếp cận và sử dụng nguồn Quỹ phát triển KH&CN như một nguồn tài chính phục vụ mục tiêu phát triển doanh nghiệp: Theo quy định tại Nghị định 95/2014/NĐ-CP, nguồn Quỹ được hình thành trên cơ sở trích lập từ nguồn thu nhập tính thuế của doanh nghiệp (thu nhập trước thuế) cho 04 nhóm nội dung, trong đó, nội dung (3) Hỗ trợ phát triển KH&CN của doanh nghiệp về cơ bản sẽ gắn chặt chẽ với định hướng phát triển, kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để việc sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp một cách hợp lý và hiệu quả, trước tiên, cần xem đây là một trong các nguồn tài chính phục vụ cho phát triển của doanh nghiệp, bên cạnh các nguồn tài chính khác. Theo đó, doanh nghiệp cần cơ cấu và xác định lại một cách tổng thể việc sử dụng các nguồn tài chính cho các mục tiêu phát triển doanh nghiệp, trong đó có mục tiêu về phát triển, ứng dụng KH&CN tại doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, quy định về quản lý và chi tiêu từ nguồn Quỹ phát triển KH&CN cần thống nhất định hướng phát triển cũng như các quy định về đầu tư, tài chính khác của doanh nghiệp.
- Thiếu thống nhất trong áp dụng luật (giữa Luật KH&CN và Luật Đấu thầu) trong quy trình lựa chọn đơn vị thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của doanh nghiệp: các nhiệm vụ KH&CN sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của Tập đoàn, Tổng công ty, được giao cho các tổ chức KH&CN thuộc Tập đoàn, Tổng công ty, thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu (tại Điểm b Khoản 1 Điều 4 Luật Đầu thầu quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật này bao gồm dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; Khoản 11 Điều 4 Luật đấu thầu quy định “Dự án đầu tư phát triển (sau đây gọi chung là dự án) bao gồm: chương trình, dự án đầu tư xây dựng mới; dự án cải tạo, nâng cấp, mở rộng các dự án đã đầu tư xây dựng; dự án mua sắm tài sản, kể cả thiết bị máy móc không cần lắp đặt; dự án sửa chữa nâng cấp tài sản, thiết bị; dự án, đề án quy hoạch; dự án, đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật, điều tra cơ bản; các chương trình, dự án đề án đầu tư phát triển khác”). Theo đó, việc giao các nhiệm vụ KH&CN phải được thực hiện theo Luật Đấu thầu với các hình thức lựa chọn nhà thầu như sau: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp, tự thực hiện. Điều này đã và đang gây khó khăn cho Tập đoàn, Tổng công ty và các tổ chức KH&CN trực thuộc, vì quy trình thực hiện kéo dài, khối lượng hồ sơ lớn, dẫn đến chậm trễ trong thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, ảnh hưởng đến việc đưa các kết quả R&D vào thực tế sản xuất, kinh doanh của các đơn vị.
- Quy định về việc xác định giá trị tài sản hình thành từ các nhiệm vụ KH&CN và hạch toán để đưa trở lại quá trình sản xuất cho thấy việc sử dụng nguồn Quỹ phát triển KH&CN thiếu tính hấp dẫn đối với các doanh nghiệp. Với các quy định hiện tại, Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp chỉ có hiệu quả khi được sử dụng cho các hoạt động nghiên cứu phát triển (nhóm nhiệm vụ số 1 và 2); việc ứng dụng và đầu tư đổi mới công nghệ (nhóm nhiệm vụ số 3 về hỗ trợ phát triển KH&CN) không mang lại hiệu quả, trong khi đây mới là nhu cầu chủ yếu của doanh nghiệp.

Việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước còn nhiều vướng mắc. Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Quy định về xử lý tài sản hình thành từ các nhiệm vụ KH&CN
Việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước được quy định tại Nghị định số 70/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ (như đã tổng hợp ở phần I). Tuy nhiên, hiện nay, tất cả các đơn vị thực thi (trong đó có Bộ Công Thương) đều chưa triển khai thực hiện được các quy định này.
Khó khăn là do các quy định này coi sản phẩm KH&CN giống như các sản phẩm thông thường dẫn tới các quy định về quản lý (nhất là trong khâu xác định loại tài sản cần xử lý đối với các nhiệm vụ KH&CN), xử lý tài sản (đặc biệt ở khâu xác định giá trị tài sản) không có tính khả thi. Vướng mắc trong khâu xử lý tài sản khiến nhiều sản phẩm KH&CN có chất lượng và giá trị kinh tế, thương mại, giá trị ứng dụng chưa được đưa vào thực tiễn.
Quy định về định mức xây dựng, phân bổ dự toán kinh phí đối với nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN
Định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ KH&CN có sử dụng NSNN được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN mặc dù đã có nhiều bước tiến so với quy định trước đây, tuy nhiên, thực tiễn áp dụng phát sinh một số điểm chưa phù hợp: 
- Về định mức ngày công: theo cách tính được quy định tại Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN và mức lương cơ bản tính cho năm 2020 (1.490.000 đồng/tháng), định mức ngày công cao nhất (áp dụng cho chủ nhiệm nhiệm vụ cấp quốc gia) là 1.177.100 đồng, các thành viên chính là xấp xỉ 730.000 đồng, thấp nhất là kỹ thuật viên, xấp xỉ 238.000 đồng. Số liệu này thấp hơn nhiều so với thực tế chi phí ngày công lao động được trả cho các cán bộ nghiên cứu, tư vấn trong lĩnh vực KH&CN, đặc biệt là những cán bộ/chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ. So sánh với một số định mức của một số tổ chức quốc tế áp dụng cho chuyên gia của Việt Nam cũng thấy một kết quả tương tự. Theo hướng dẫn của UN và EU, định mức ngày công cho cán bộ/chuyên gia trong nước có mức thấp nhất là 70 USD (tương đương trên 1,6 triệu đồng/ngày) và mức cao nhất là 270 USD (tương đương 6,3 triệu đồng/ngày). Mặt khác, quy định đơn giá ngày công tại Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN căn cứ theo vị trí của cán bộ nghiên cứu tham gia thực hiện nhiệm vụ KH&CN (chủ nhiệm, thành viên thực hiện chính, thành viên, kỹ thuật viên, nhân viên hỗ trợ), trong khi chưa tính tới trình độ, kinh nghiệm của các cán bộ khi tham gia thực hiện nhiệm vụ.
- Về căn cứ xác định số lượng ngày công: Với quy định về cách tính và đơn giá ngày công nêu trên khiến cho việc dự toán số lượng ngày công thực hiện nhiệm vụ chưa phản ánh đúng thực tế số lượng ngày công phải triển khai (thường nhiều hơn so với thực tế). Cùng với ràng buộc về số giờ làm thêm theo Luật Lao động khiến hầu hết các đơn vị triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN có nguy cơ vi phạm số giờ làm thêm theo quy định.
- Quy định về sử dụng chuyên gia trong nước và chuyên gia nước ngoài không rõ ràng, khó khăn trong quá trình áp dụng: Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN cho phép thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài tham gia thực hiện nhiệm vụ KH&CN, tuy nhiên, chỉ quy định về cơ cấu chi phí thuê chuyên gia trong tổng chi phí về công lao động, không có hướng dẫn cụ thể về cách xác định định mức ngày công cho chuyên gia, phân loại hoặc các tiêu chí cụ thể cho chuyên gia và sử dụng chuyên gia thuê ngoài đối với đơn vị chủ trì thực hiện.
- Định mức kinh phí quản lý chung nhiệm vụ KH&CN không phù hợp, đặc biệt với các nhiệm vụ KH&CN có quy mô lớn, thời gian thực hiện kéo dài: Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN cho phép dự toán kinh phí quản lý chung nhiệm vụ KH&CN (bao gồm: chi điện, nước, các khoản chi hành chính phát sinh liên quan đảm bảo triển khai nhiệm vụ KH&CN tại tổ chức chủ trì; chi tiền lương, tiền công phân bổ đối với các hoạt động gián tiếp trong quá trình quản lý nhiệm vụ KH&CN của tổ chức chủ trì) bằng 5% tổng dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN nhưng tối đa không quá 200 triệu đồng. Việc giới hạn mức trần kinh phí quản lý chung nhiệm vụ KH&CN là 200 triệu, trong khi quy mô của các nhiệm vụ KH&CN có xu hướng ngày càng lớn đã cho thấy những bất cập, không đủ bù đắp các chi phí chung của đơn vị chủ trì nhiệm vụ.
- Dự toán thực hiện các nhiệm vụ KH&CN thường có độ lệch với thực tế tại thời điểm triển khai, do quá trình xây dựng kế hoạch và triển khai các nhiệm vụ KH&CN thường kéo dài, đặc biệt liên quan tới giá của nguyên, nhiên, vật liệu và máy móc thiết bị được phê duyệt mua để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Bên cạnh đó, các thủ tục về điều chỉnh kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN (loại kinh phí không khoán) thường phức tạp, gây khó khăn và nhiều vướng mắc cho các đơn vị trong quá trình thực hiện.
- Một số nội dung chi và định mức chi liên quan tới công tác quản lý các nhiệm vụ KH&CN không phù hợp, không phản ánh đúng yêu cầu công tác quản lý cũng như việc đảm bảo nguồn tài chính để thực hiện các nội dung này. Cụ thể:
+ Không có nội dung chi cho tổ chuyên gia đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN: Hoạt động nghiệm thu các nhiệm vụ KH&CN được thực hiện thông qua hình thức họp Hội đồng với yêu cầu đánh giá đầy đủ khối lượng, chất lượng các sản phẩm KH&CN theo Hội đồng. Đối với các nhiệm vụ có quy mô lớn, số lượng và khối lượng các sản phẩm KH&CN nhiều thì việc chỉ đánh giá thông qua buổi họp của Hội đồng nghiệm thu có thể không đánh giá được đầy đủ, chính xác các kết quả này. Đối với các nhiệm vụ này, cần có hoạt động đánh giá, kiểm tra của tổ chuyên gia trước khi diễn ra buổi họp của Hội đồng, đặc biệt đối với các sản phẩm là hiện vật (máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, sản phẩm, v.v…) được thi công, xây dựng tại hiện trường.
+ Định mức chi cho các hoạt động quản lý thấp, chưa phù hợp: chi cho hoạt động kiểm tra giữa kỳ, các Hội đồng trong quá trình xây dựng kế hoạch KH&CN (ví dụ: Tổ trưởng tổ thẩm định tài chính: 500.000 đồng/nhiệm vụ; Thành viên tổ thẩm định tài chính: 400.000đồng/nhiệm vụ) trong khi hoạt động xây dựng kế hoạch nói chung và hoạt động thẩm định kinh phí các nhiệm vụ KH&CN nói riêng có vai trò quan trọng trong việc xác định các nhiệm vụ cần triển khai (về nội dung và nguồn lực).
Việc thực hiện cơ chế khoán tới sản phẩm cuối cùng chưa được thực hiện trên thực tế
Quy định về phương thức và nội dung khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC là điểm mới, có tính đột phát so với các quy định trước đây. Theo đó, nhiệm vụ KH&CN được khoán chi theo một trong hai phương thức: (1) khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc (2) khoán chi từng phần. Đối với các hình thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng, chủ nhiệm nhiệm vụ và tổ chức chủ trì được chủ động thực hiện các khoản chi theo thực tế phát sinh để đáp ứng yêu cầu khoa học của nhiệm vụ, không phụ thuộc vào định mức chi và dự toán của từng nội dung chi được duyệt trong tổng số các nội dung chi được giao khoán. Kinh phí đã giao khoán mà tiết kiệm được do không chi hết được để lại cho tổ chức chủ trì quyết định phương án sử dụng. Tuy nhiên, trên thực tế, Bộ Công Thương và các đơn vị chưa áp dụng được hình thức này do:
- Định mức kinh tế kỹ thuật cho các sản khoa học và công nghệ được quy định tại Thông tư 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN, tuy nhiên, việc áp dụng định mức này trong việc triển khai phương thức khoán tới sản phẩm cuối cùng của các nhiệm vụ KH&CN chưa có hướng dẫn cụ thể.
- Hầu hết nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phụ tùng phục vụ hoạt động R&D (hoạt động nghiên cứu tạo ra dây chuyền công nghệ, thiết bị mới để ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh) chưa có định mức kinh tế - kỹ thuật được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành. Trong khi đó, tại điểm a Khoản 3 Điều 7 Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC quy định nội dung này không được giao khoán nếu chưa được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật.
- Về kinh phí thực hiện không giao khoán: Tại Khoản 2, Điều 10 về sử dụng kinh phí trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quy định đối với kinh phí không được giao khoán như sau: “Tổ chức chủ trì thực hiện quản lý và chi tiêu các mục chi, nội dung chi, định mức chi nêu tại thuyết minh nhiệm vụ đã được cơ quan quản lý phê duyệt theo các quy định hiện hành của nhà nước”. Theo nội dung này, các khoản chi phí không khoán phải tuân thủ theo đúng như dự toán đã được phê duyệt trong thuyết minh nhiệm vụ. Tuy nhiên, thực tế triển khai có những nội dung vượt theo với dự toán ban đầu tại thuyết minh nhiệm vụ do đơn giá vật tư, thiết bị thay đổi. Điều này gây khó khăn cho đơn vị thực hiện.
Ths Nguyễn Bá Chiến
Phó Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp, Vụ Khoa học và Công nghệ
lên đầu trang