Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ sáu, 26/04/2024 | 00:56

Thứ sáu, 26/04/2024 | 00:56

Chính sách

Cập nhật lúc 13:38 ngày 22/09/2021

Cân bằng chính sách Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo

Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo mới kỳ vọng sẽ góp phần hoàn thiện Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực doanh nghiệp, hướng tới tăng trưởng cao và bền vững cho Việt Nam.
Mới đây World Bank Việt Nam đã cho ra mắt Báo cáo khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH, CN và ĐMST) Việt Nam. Đây là sản phẩm của Chương trình hỗ trợ phân tích và tư vấn của Ngân hàng Thế giới (WB) về nâng cao ĐMST ở Việt Nam, được xây dựng theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam thông qua Bộ KH&CN và được tài trợ bởi Chương trình quan hệ đối tác chiến lược giữa Chính phủ Úc và WB giai đoạn II (ABP2). Báo cáo góp phần cung cấp các khuyến nghị quan trọng trong việc xây dựng Chiến lược KH, CN và ĐMST giai đoạn 2021-2030.
Báo cáo Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam tại đây.

Sự cần thiết của mô hình tăng trưởng theo định hướng ĐMST và năng suất
Việt Nam đã đạt được các thành tựu phát triển ấn tượng trong 30 năm qua. Tăng trưởng duy trì ở mức cao, bình quân 7% kể từ năm 1988 đã dẫn tới thu nhập bình quân đầu người tăng gần gấp năm lần, đưa Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình chỉ trong một thế hệ. Nhờ mở cửa thương mại và đầu tư, Việt Nam đã thu hút được lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tạo ra nhiều việc làm. Ngày nay, Việt Nam là nhà xuất khẩu điện thoại thông minh lớn thứ hai trên thế giới, sản xuất hơn 40% sản phẩm điện thoại của Samsung trên toàn cầu - thể hiện rõ thành công của chiến lược tăng trưởng.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới trong chuyển đổi kinh tế với những thách thức chưa từng có tiền lệ trên thế giới và trong nước, đặt ra nhu cầu bức thiết cần thúc đẩy ĐMST trong chương trình nghị sự phát triển quốc gia. Việt Nam có khát vọng tham gia nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2035, và theo đuổi hình mẫu phát triển như Hàn Quốc, Singapore và Nhật Bản. Những thách thức về suy giảm tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu, tốc độ phát triển nhanh chóng về công nghệ trong bối cảnh cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 cùng khó khăn kinh tế do đại dịch COVID-19 mang lại khiến Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề khi đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nhất là trong các chuỗi giá trị sản xuất và du lịch.
Báo cáo góp phần cung cấp các khuyến nghị quan trọng trong việc xây dựng Chiến lược KH, CN và ĐMST giai đoạn 2021-2030.
Việc ứng dụng và truyền bá các công nghệ mới, công nghệ kỹ thuật số cùng với cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 mang đến cơ hội nâng cao năng suất và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trong bối cảnh khủng hoảng. Sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ, đặc biệt là làn sóng mới về số hoá, tự động hóa, và trí tuệ nhân tạo (AI) ngày càng tinh vi sẽ định hình lại chiến lược định hướng xuất khẩu dựa trên thâm dụng lao động với chi phí thấp của Việt Nam.
Các đột phá công nghệ trong quá trình sản xuất và phân phối sẽ tác động đến các ngành sản xuất ở mức độ khác nhau, đồng thời mang lại cơ hội mới cho các ngành dịch vụ như một nhân tố bổ trợ cần thiết thúc đẩy thành công của các ngành sản xuất. Các mô hình kinh doanh mới, các doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên nền tảng kỹ thuật số và các công ty “siêu ứng dụng” như ZaloPay, Momo mang lại nhiều triển vọng hứa hẹn.
Việt Nam cũng đang trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư mạo hiểm, đầu tư vốn cổ phần tư nhân (VCPE). Cụ thể, góp vốn từ các quỹ Đầu tư Mạo hiểm (VC) tăng gấp bốn lần từ 205 triệu USD năm 2016 lên 889 triệu USD với 92 giao dịch năm 2018. Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 bùng phát càng cho thấy nhu cầu phải đẩy nhanh tốc độ ứng dụng, phổ biến công nghệ, mô hình kinh doanh mới và giải pháp kỹ thuật số để hỗ trợ tăng trưởng và tính linh hoạt của doanh nghiệp
Dư địa cho tăng cường ĐMST và số hóa trong doanh nghiệp
Báo cáo cũng nhận định Việt Nam hiện còn nhiều dư địa để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phần lớn doanh nghiệp trong nước là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), chiếm 98% tổng số doanh nghiệp và chiếm 1/2 lực lượng lao động.
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện còn hạn chế do thiếu quy mô, công nghệ và mức độ tinh vi về kinh doanh để có thể tăng năng suất và mở rộng thị trường. Có rất nhiều cơ hội để cải thiện năng suất doanh nghiệp thông qua việc ứng dụng và phổ biến công nghệ tại Việt Nam. Về công nghệ kỹ thuật số, kết quả khảo sát mới đây về áp dụng công nghệ (2020) cho thấy, với các loại hình kinh doanh khác nhau, trung bình chỉ có 20% doanh nghiệp sử dụng quy trình số hóa hoàn chỉnh trong triển khai các chức năng kinh doanh chung (GBF) tại Việt Nam - bao gồm tiếp thị, thanh toán, lập kế hoạch sản xuất để hỗ trợ bán hàng và quản lý chuỗi cung ứng, bán hàng.
Chỉ số sẵn sàng về công nghệ số thể hiện mức độ số hóa các hoạt động kinh doanh khác nhau của một doanh nghiệp. Một công ty có thể áp dụng công nghệ số trong một số nhiệm vụ. Ví dụ, doanh nghiệp có thể thực hiện bán hàng trực tuyến và đồng thời quản lý chuỗi cung ứng bằng các công nghệ số. Chỉ số này có giá trị nằm trong khoảng từ 0 đến 1, trong đó chỉ số đạt giá trị 1 với hoạt động bán hàng khi tất cả hoạt động bán hàng được thực hiện trên nền tảng trực tuyến hoặc website riêng.
Có rất nhiều dư địa để tăng cường số hóa trong hoạt động của doanh nghiệp, ví dụ như trong khi hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam có thể thực hiện bán hàng trực tuyến, chỉ có 1% doanh nghiệp bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng sử dụng một số phương thức bán hàng kỹ thuật số thường xuyên hơn các phương pháp khác, hoặc thông qua nền tảng xã hội hoặc (thông thường) trên website của riêng họ. Mặt khác, có 51% doanh nghiệp sử dụng các công nghệ kỹ thuật số trong hoạt động tiếp thị và quảng cáo. Trong tương lai, Việt Nam sẽ cần tăng cường mức độ sẵn sàng ứng dụng các công nghệ kỹ thuật số và nền sản xuất linh hoạt hơn trước các thách thức hiện hữu song hành cùng cú sốc của đại dịch COVID-19.
Hạn chế về áp dụng công nghệ kỹ thuật số vẫn tồn tại trong tự động hóa các ngành sản xuất do chi phí lao động còn thấp, số lượng DN ở Việt Nam sử dụng các công nghệ của cuộc CMCN 4.0 như in 3D, robot… còn ít. DN Việt Nam cần tiếp tục tích lũy năng lực đổi mới, trước hết thông qua chuyển đổi các quy trình hiện tại sang sử dụng các công nghệ kỹ thuật số, sau đó tiến tới các công nghệ của CMCN 4.0 phức tạp hơn.
Khuyến nghị chính sách
Trên sở sở kết quả phân tích, WB đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách:
Khung chính sách KH, CN và ĐMST cần chuyển dịch theo hướng hỗ trợ ĐMST và ứng dụng công nghệ trong DN
Chính sách KH, CN và ĐMST hiện vẫn thiên về ĐMST dựa trên nghiên cứu và phát triển (R&D) mà ít tập trung vào ĐMST phi R&D, bao gồm hoạt động tiếp nhận và phổ biến công nghệ. Nghiên cứu cho thấy, có thiên lệch trong phân bổ nguồn lực dành cho các chương trình R&D với mục tiêu tạo ra công nghệ mới hơn là hướng đến phát triển năng lực bắt kịp trình độ công nghệ cao nhất (đường biên công nghệ) thông qua việc ứng dụng và phổ biến công nghệ tiên tiến đã lưu hành trên thế giới cho nhiều DN hơn.
Mặc dù cũng đã có một số chương trình như Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia có hoạt động thúc đẩy ứng dụng và phổ biến công nghệ, nhưng đây không phải là trọng tâm của các chương trình này. Hơn nữa, kinh phí dành hoạt động ĐMST dựa trên R&D lớn hơn nhiều so với các chương trình ĐMST phi R&D.
Ngoài ra, các đối tượng hưởng lợi của các chương trình hỗ trợ đa phần là các DN lớn. Các chương trình hỗ trợ như ưu đãi thuế thường tập trung vào một số ít các công ty đa quốc gia, dành nhiều đầu tư và ưu đãi cho các DN công nghệ cao, nhưng chưa tập trung tối ưu hóa hiệu ứng lan tỏa của các DN này đối với DN nhỏ hơn trong nước.
Đầu tư xây dựng năng lực của Chính phủ trong thiết kế và thực thi chính sách ĐMST
Thiết kế và tổ chức thực hiện tốt chính sách là chìa khoá quyết định hiệu quả chính sách. Việc thiết kế và triển khai các chương trình KH, CN và ĐMST ở Việt Nam còn khoảng cách xa so với thông lệ quốc tế. Ngay cả khi xác định đúng các định hướng ưu tiên, tính hiệu quả của chính sách ĐMST vẫn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của khâu thiết kế và tổ chức thực hiện.
Khắc phục các điểm yếu của hệ thống ĐMST quốc gia để thúc đẩy DN ứng dụng công nghệ và mô hình kinh doanh mới
Việt Nam đã có tiến bộ trong khắc phục các điểm yếu phía cung và cầu của hệ thống ĐMST quốc gia, nhưng tốc độ và chất lượng cải cách còn chưa đồng đều. Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện một loạt cải cách từ cắt giảm chi phí kinh doanh, tăng cường khung pháp lý bảo vệ sở hữu trí tuệ cho tới thí điểm chương trình tư vấn kinh doanh dựa trên nhu cầu để thúc đẩy liên kết giữa DNNVV với DN đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để giải quyết các điểm yếu còn lại trong hệ thống ĐMST quốc gia đang cản trở việc nâng cao chất lượng DN và ĐMST.
Tăng cường cải cách thể chế điều phối chính sách ĐMST
Với bản chất phức tạp và đa ngành vốn có của quá trình ĐMST, cần có sự điều phối hiệu quả giữa các cơ quan khác nhau. Khi xem xét các chức năng thể chế theo các giai đoạn của chu kỳ chính sách, có thể phân biệt ít nhất 4 bước tuần tự nhưng có tính chất lặp: i) xây dựng chiến lược ĐMST, ii) thiết kế chính sách ĐMST, iii) thực hiện và giám sát chính sách ĐMST, iv) triển khai các công cụ và hoạt động ĐMST. Cũng cần phải bổ sung các chức năng không theo thứ tự bao gồm chức năng điều phối và lập kế hoạch, vì tầm quan trọng của những chức năng này trong bối cảnh chính sách ĐMST.
ĐMST được hiểu là việc giới thiệu và áp dụng các sản phẩm, công nghệ, quy trình kinh doanh, mô hình kinh doanh và ý tưởng mới trên thị trường, cũng như việc phát minh ra ý tưởng mới. Theo quan điểm truyền thống, ĐMST được nhìn nhận qua lăng kính hẹp của khoa học, nghiên cứu và triển khai (R&D), và phát minh sáng chế thuần tuý.
Báo cáo này nhìn nhận ĐMST ở phạm vi rộng hơn, khi các doanh nghiệp ứng dụng các tri thức/công nghệ tiên tiến sẵn có và trí thức mới nhằm thúc đẩy năng suất và tăng trưởng. Áp dụng và phổ biến tri thức, công nghệ mới mang lại rất nhiều lợi ích tiềm năng, tuy nhiên, các chính phủ, bao gồm cả Việt Nam, vẫn chưa nỗ lực đầu tư tương xứng để hiện thực hoá những lợi ích này.
Minh Nhật
lên đầu trang