Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ bảy, 20/04/2024 | 06:26

Thứ bảy, 20/04/2024 | 06:26

Tin KHCN

Cập nhật lúc 08:19 ngày 01/08/2022

Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), nhân lực KH&CN gồm những người đáp ứng một trong 3 tiêu chí: 1) Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng và làm việc trong một ngành KH&CN; 2) Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành KH&CN nào; 3) Chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng làm một công việc trong một lĩnh vực KH&CN đòi hỏi trình độ tương đương (1).
Ảnh minh họa - Internet 
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), khoa học và công nghệ (KH&CN) là yếu tố then chốt và như vậy, việc phát triển nguồn nhân lực KH&CN đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nguồn nhân lực này là tập hợp những người tham gia các hoạt động KH&CN với chức năng nghiên cứu, sáng tạo, giảng dạy, quản lý, tác nghiệp.
Đây là lực lượng góp phần quyết định tạo nên sự phát triển, tiến bộ của KH&CN nói riêng và của sự nghiệp CNH, HĐH nói chung. Có thể nói, đây là lực lượng tiên phong trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, thực hiện việc ứng dụng có kết quả vào điều kiện Việt Nam, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước.
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến sự phát triển của nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Bối cảnh quốc tế
Yếu tố toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có tác động nhiều mặt và đặt ra những yêu cầu mới đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở mỗi quốc gia, dẫn đến một cuộc cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã hội. Do đó, các quốc gia, địa phương phải chuẩn bị cho mình những tiềm lực lao động đáp ứng yêu cầu của một hệ thống ngành nghề mới đang phát triển phù hợp với xu thế thời đại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các quốc gia còn phải hướng đến việc phát triển nguồn nhân lực KH&CN thích ứng với bối cảnh cạnh tranh để phát triển.
Có thể nhận ra rằng, tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đối với việc điều chỉnh, lựa chọn chiến lược phát triển của các quốc gia, địa phương mà trong đó có cả phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực KH&CN nói riêng là rất mạnh mẽ và sâu sắc. Phát triển một thế hệ mới các doanh nhân, đội ngũ trí thức, những người lao động có trình độ chuyên môn cao, có tay nghề vững vàng, có năng lực quản lý, sản xuất, kinh doanh để có thể giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh trước bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Mặt khác, xu hướng dịch chuyển nhân lực trình độ cao trên phạm vi toàn cầu: quyền tự do đi lại và các chính sách mở cửa, chào đón “nhân tài” của các quốc gia khiến nguồn nhân lực KH&CN được tự do dịch chuyển theo nhiều hướng khác nhau trên thế giới. Cơ hội là công bằng cho tất cả nếu môi trường làm việc đáp ứng được kỳ vọng của người lao động. Cũng chính vì thế mà sự cạnh tranh rất gay gắt. Lao động được tự do dịch chuyển lại trở thành thách thức cho những nước đang phát triển với nguy cơ của nạn “chảy máu chất xám”.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 gắn với chuyển đổi số, kinh tế số
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0). Trong thời gian gần đây, CMCN 4.0 được đề cập nhiều. Bản chất của CMCN 4.0 là sản xuất thông minh nhờ vào tiến bộ của công nghệ số trong hai thế giới kết nối với nhau trong đó ta đang và sẽ sống: Thế giới các thực thể và thế giới các phiên bản số của các thực thể (thế giới số).
Nền công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung - cầu lao động. Các nhà kinh tế và khoa học quốc tế cảnh báo, trong cuộc cách mạng này, thị trường lao động sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động. Trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của Robot, số lượng nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Như vậy, 9/10 nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp.
Bởi vậy, sự phát triển của cuộc cách mạng này đang đòi hỏi cấp bách những nguồn nhân lực mới, ở tầm vĩ mô cấp quốc gia cũng như trong mỗi tổ chức, doanh nghiệp (DN). Sự thay đổi nhân lực sẽ xảy ra toàn diện trong xã hội, trên nền kinh tế vĩ mô cũng như nơi mỗi tổ chức xã hội, mỗi DN hoạt động, đặc biệt nơi những lĩnh vực có liên quan đến công nghệ thông tin hay chịu ảnh hưởng nhiều từ nền tảng công nghệ mới này.
Trong cuộc cách mạng này, nhiều ngành nghề sẽ biến mất, nhưng lại có những công việc mới ra đời. Điều đó đòi hỏi nguồn nhân lực phải được trang bị kiến thức, kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Trong báo cáo về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai do Diễn đàn Kinh tế Thế giới mới đây công bố, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc CMCN 4.0, chỉ xếp thứ 70/100 về nguồn nhân lực và 81/100 về lao động có chuyên môn cao. Cũng theo báo cáo này, so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về nguồn nhân lực, Việt Nam xếp sau Malaysia, Thái Lan, Philippines (2).
Tâm điểm của cuộc Cách mạng này chính là việc hình thành các nhà máy thông minh, nhà máy số - nơi mà các máy móc, thiết bị sẽ được kết nối, tự động ra quyết định toàn bộ hoạt động của nhà máy từ khâu thu thập, phân tích yêu cầu, xây dựng kế hoạch sản xuất.
Đặc biệt, xu hướng ứng dụng kinh tế số sẽ là xu hướng chủ đạo trong phát triển KT - XH giai đoạn 2021 - 2030. Với hiệu suất kinh tế vượt trội, các mô hình kinh tế số đang tạo ra những biển đổi căn bản trong nhiều ngành kinh tế như thương mại, dịch vụ, công nghiệp, giáo dục… tạo ra những đột phá về năng suất lao động, cách thức sản xuất, tiêu dùng. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang được dự báo sẽ làm thay đổi mạnh mẽ mô hình phát triển kinh tế của các quốc gia từ việc dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động chi phí thấp sang đổi mới và sáng tạo. Xu thế này một lần nữa cho thấy vai trò trọng tâm của nguồn nhân lực chất lượng cao, vì đổi mới, sáng tạo suy đến cùng xuất phát từ nguồn nhân lực.
Đặc biệt, thách thức lớn nhất của vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ này đó là tác động từ việc Việt Nam đã và đang ký kết, gia nhập nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương thế hệ mới, đòi hỏi nền kinh tế phải hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế, nếu không sẽ bị “thua ngay trên sân nhà”.
Khủng hoảng thế giới do tác động của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, chiến tranh thương mại giữa các quốc gia
Thế giới của chúng ta hiện đang đứng trước rất nhiều thách thức đến từ đại dịch Covid-19, già hóa dân số, biến đổi khí hậu, chiến tranh thương mại giữa các cường quốc… Trước tình hình đó, lợi thế cho quốc gia nào có những giải pháp hữu hiệu, cho từng đối tượng phù hợp và kịp thời đúng thời điểm.
Cấp bách nhất hiện nay là kiểm soát đại dịch Covid-19 và thế giới khẩn trương có nhiều loại vaccines đã, đang đẩy lùi dịch bệnh hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn chưa có dấu hiệu cho thấy đại dịch có thể được kiểm soát trong thời gian ngắn. Chính phủ nhiều nước đã phải đưa ra các định hướng nhằm sống chung với dịch bệnh trong tương lai gần và kể cả trung hạn để khôi phục sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo việc làm nhằm duy trì phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó phát triển, nâng tầm kỹ năng lao động cho đối tượng lao động thanh niên trẻ thời hậu Covid-19 được xác định là trọng tâm.
Phát biểu khai mạc tại Diễn đàn “Tương lai việc làm trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và cách mạng công nghiệp 4.0 - Phát triển kỹ năng thiết yếu cho thanh niên Việt Nam” tổ chức trực tuyến vào ngày 14/7/2021 do Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, các tổ chức quốc tế tổ chức, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ nhấn mạnh, Covid-19 và Cách mạng Công nghiệp 4.0 là “cú sốc kép” đối với thị trường lao động toàn cầu. Một mặt gây đứt gãy thị trường lao động, gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng xã hội, nhất là đối với lực lượng lao động trẻ.
Theo ILO, việc làm của thanh niên đã giảm 8,7% năm 2020 so với 3,7% ở người lớn tuổi hơn. Số người thất nghiệp dự báo vẫn ở mức cao và đến năm 2023 mới trở về mức trước đại dịch. Mặt khác, hai cú sốc đã và đang đẩy nhanh quá trình chuyển đổi việc làm và kỹ năng nhằm thích ứng với những điều chỉnh mang tính cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu. Việc làm bị mất đi trong những ngành công nghiệp cũ đã lạc hậu dự báo sẽ được thay thế bằng việc làm mới trong những ngành kinh tế xanh, công nghiệp sáng tạo đang ngày càng phát triển.
Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), đến 2025 có 85 triệu việc làm trên toàn cầu sẽ bị xóa bỏ, nhưng đồng thời có 97 triệu việc làm mới được tạo ra. Theo đó, để đáp ứng yêu cầu của thế giới việc làm mới, ước tính khoảng 50% lao động cần được đào tạo lại và đào tạo nâng cao về kỹ năng (reskilling và upskilling) (3).
Bốn là, kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu
Biến động của giá cả trên thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng KH&CN để phát triển.
Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các Hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới.
Bối cảnh trong nước
Sau 35 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh: quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế; tình hình chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô ổn định, niềm tin của cộng đồng DN và xã hội tăng lên; tính tự chủ được cải thiện; năng lực quản trị nhà nước, điều hành phát triển KT - XH được nâng cao; uy tín, vị thế đất nước ngày càng được củng cố trên trường quốc tế.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang chiều sâu, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Nguồn lao động dồi dào, có khả năng thích nghi tốt với những thay đổi khoa học và công nghệ (4).
Đặc biệt, CNH, HĐH trong giai đoạn tới là đẩy mạnh thực hiện mô hình CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức; lấy KH&CN, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý; phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được quan tâm và có sự chuyển biến tích cực; tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh; vẫn còn cơ hội cơ cấu dân số vàng; thành quả xây dựng nông thôn mới được củng cố, đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, trong giai đoạn tới nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khả năng tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là thách thức lớn; độ mở của nền kinh tế lớn làm các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước nhanh và mạnh hơn. Khả năng tự chủ của nền kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh từ biến động của hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước ngoài và một số thị trường lớn.
Khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục; năng lực tiếp cận kinh tế số còn hạn chế; các yếu tố nền tảng như thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ... còn thấp so với yêu cầu để đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mức độ tham gia của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực vẫn còn hạn chế và mới chỉ tham gia ở các công đoạn giản đơn. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển KT - XH rất lớn trong khi đó nguồn vốn nhà nước, vốn ưu đãi và viện trợ đều có xu hướng giảm.
Các vấn đề xã hội gây áp lực lớn đến phát triển KT - XH, như già hóa dân số, chênh lệch giàu - nghèo và trình độ phát triển. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng nhanh với cường độ mạnh, khó lường, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài đến những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2021 - 2025. Những thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước, tài nguyên, đất đai và xử lý ô nhiễm môi trường sẽ tác động nặng nề đến phát triển KT - XH.
Nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Yêu cầu đặt ra không chỉ hóa giải các nguy cơ, thách thức mà còn phải tích cực, chủ động trước thời cơ mới khi cấu trúc kinh tế thế giới, quản trị toàn cầu được định hình lại, phương thức sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống xã hội thay đổi sau đại dịch Covid-19.
Mặt khác, Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng. Kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, một số hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới quan trọng như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)... đòi hỏi phải cải cách thể chế kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhua cầu về lao động của các đối tác.
Có thể thấy, những tác động tích cực như tạo cơ hội cho người lao động có tay nghề được phép di chuyển tự do khi Việt Nam hội nhập sâu rộng với các tổ chức quốc tế; cơ hội nâng cao tiền lương và thu nhập cho người lao động, đặc biệt là người lao động có tay nghề cao; cơ hội nâng cao chất lượng nguồn cung lao động nhờ sự hợp tác về lao động giữa các nước. Bên cạnh đó, là những thách thức không nhỏ đến việc làm, thu nhập… của lao động Việt Nam.
Đó là: chất lượng cung lao động thấp dẫn đến nguy cơ lao động Việt Nam có thể bị thua ngay trên sân nhà; có thể làm tăng thất nghiệp và việc làm; thách thức phải đổi mới chương trình đào tạo, nhất là đào tạo nghề cho lao động Việt Nam theo tiêu chuẩn khu vực và thế giới.
Như vậy, bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, tạo ra những cơ hội để Việt Nam phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, phát triển nguồn nhân lực KH&CN của nước ta trong bối cảnh hiện nay vẫn còn nhiều thách thức nhất định, đòi hỏi phải có những dự báo chính xác để nắm bắt được xu hướng và đề xuất các giải pháp mang tính khả thi.
2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của Việt Nam thời gian qua
Thành tựu
Số lượng và quy mô nguồn nhân lực KH&CN của nước trong thời gian qua tăng nhanh qua các năm. Đặc biệt, nguồn nhân lực KH&CN được xem là nguồn nhân lực trẻ. Tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học (tiến sĩ, thạc sĩ) chiếm tỷ lệ cao. Tình trạng “chảy máu chất xám” được khắc phục qua từng năm.
Theo số liệu thống kê, năm 2020, số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên hiện có khoảng 1,5 triệu người, trong đó số giáo sư, phó giáo sư khoảng 2.000 người, hơn 14.000 tiến sĩ, hơn 11.000 thạc sĩ. Số cán bộ hoạt động trong lĩnh vực KH&CN hơn 34.000 người, hơn 42.000 cán bộ giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và hàng vạn cán bộ KH&CN làm việc trong các ngành, lĩnh vực kinh tế khác.
Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực KH&CN có bước tiến bộ về mọi mặt về trình độ học vấn; trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng nghề. Đơn cử như trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ đã nghiên cứu và ứng dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, bảo quản nông sản sau thu hoạch, góp phần đa dạng hóa sản phẩm, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
Lĩnh vực y dược cũng đã nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong chẩn đoán, phát hiện, phòng và điều trị bệnh, đánh giá thực trạng một số bệnh trong cộng đồng có xu hướng gia tăng cùng với biến động của môi trường, khí hậu. Trong nông nghiệp, một số giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng cao, một số kỹ thuật tiên tiến đã được chuyển giao vào các địa bàn. Kết quả của việc tăng cường nghiên cứu, ứng dụng KH&CN trên các lĩnh vực đã đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển các vùng kinh tế - xã hội, vùng kinh tế trọng điểm, phát huy lợi thế và tiềm năng của các địa phương.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo tiền đề hình thành một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đa ngành mới, như vũ trụ, y sinh, nanô, hạt nhân; một số lĩnh vực khoa học tự nhiên, như toán học, vật lý lý thuyết đạt thứ hạng cao trong khu vực ASEAN. Khoa học xã hội và nhân văn đã kịp thời cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương phát triển đất nước, hoàn thiện pháp luật, tạo tiền đề cho đổi mới tư duy kinh tế, khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo tồn các hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam (5).
Mặt khác, việc thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ và tạo môi trường làm việc cho đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN đã phát huy hiệu quả; đã có chính sách khuyến khích cán bộ KH&CN làm việc ở vùng nông thôn và những vùng có điều kiện khó khăn, cũng như việc khen thưởng đãi ngộ xứng đáng đối với tập thể và cá nhân có cống hiến trong lĩnh vực KH&CN.
Đây là những chủ trương, chính sách đúng đắn và phát huy tác dụng tích cực trên thực tế. Kết quả thực hiện chủ trương, chính sách này đã góp phần trẻ hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực KH&CN. Trong đó, lực lượng cán bộ KH&CN này đã tham gia một cách tích cực và có hiệu quả vào việc tư vấn, phản biện, nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề lớn, quan trọng về KH&CN và phát triển KT - XH của nước ta trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, nông nghiệp, điều tra cơ bản, bảo vệ môi trường... đặc biệt trong việc xây dựng các chiến lược phát triển KH&CN, GD - ĐT.
Hạn chế
Một là, số lượng nguồn nhân lực KH&CN của Việt Nam mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với yêu cầu (mới chỉ chiếm 17,5% lao động xã hội), trong khi đó vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có trình độ chưa có việc làm và mức độ phát triển về quy mô những năm qua còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành KH&CN trong giai đoạn hiện nay (6).
Bên cạnh đó, nhân lực KH&CN phân bố không đều giữa các địa phương. Nguồn nhân lực KH&CN tập trung số lượng lớn ở các đơn vị hành chính lớn, các thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng... Trong khi đó nguồn nhân lực KH&CN ở các tỉnh khó khăn chiếm tỷ lệ thấp.
Ở nhiều địa phương còn thiếu cả về số lượng và chất lượng đội ngũ nhà khoa học (trên 90% số tổ chức KH&CN có số nhân lực dưới 30 người, trong đó có nhiều tổ chức có số nhân lực dưới 10 người).
Mặt khác, hiện nay, một bộ phận không nhỏ nhân lực KH&CN trình độ cao không trực tiếp làm nghiên cứu, do cơ chế bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay vẫn dựa trên trình độ chuyên môn cao (học hàm, học vị) nên có tình trạng một số cán bộ lãnh đạo tập trung chủ yếu thời gian cho công tác quản lý, điều hành mà ít tham gia trực tiếp các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Trong thời gian tới, Việt Nam có nguy cơ thiếu hụt nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành. Mặc dù, số lượng cán bộ KH&CN có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ được nâng lên, nhưng hiện nay tình trạng thiếu hụt đội ngũ kế cận đang diễn ra. Số lượng nhà khoa học có trình độ cao và có kinh nghiệm ngày càng giảm do đến tuổi nghỉ hưu, đặc biệt trong các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, lĩnh vực công nghệ cao.
3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của Việt Nam trong tình hình mới
Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và hệ thống chính trị đối với phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy các cấp có ý nghĩa rất quan trọng. Thực tế cho thấy khi nào người cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền thực sự có tài, có đức, có tâm, có tầm, thật sự muốn sử dụng “người tài” thì ở nơi đó “người tài” có nhiều cơ hội phát triển. Trọng dụng trí thức thì phải chú trọng tới hiệu quả sử dụng trí thức và biến tri thức thành sản phẩm cho xã hội.
Cần thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền về vị trí, vai trò quyết định của nguồn nhân lực KH&CN đối với sự phát triển bền vững ở địa phương. Đặc biệt, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự chí công, vô tư, không có thành kiến mới khiến cho nguồn nhân lực KH&CN thực sự có tài không bị bỏ rơi.
Để phát hiện được người tài cần mở rộng các kênh, các hình thức phát hiện phải phát huy vai trò của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cán bộ công chức và nhân dân tham gia việc tiến cử cán bộ lãnh đạo, quản lý từ nguồn trí thức cả ở trong hệ thống chính trị và ngoài xã hội.
Thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện công tác quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cũ
Đây là giải pháp có tính chất quyết định, chi phối các giải phát triển nguồn nhân lực KH&CN, bởi công tác xây dựng quy hoạch, chiến lược tác động trực tiếp, tạo nên “nội lực” để nguồn nhân lực KH&CN phát triển. Thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển không chỉ bảo đảm cho nguồn nhân lực KH&CN có sự phát triển toàn diện về số lượng, chất lượng, cơ cấu mà còn tạo hành lang pháp lý vững chắc để nguồn nhân lực này yên tâm công tác, cống hiến.
Nội dung giải pháp này yêu cầu trong quá trình xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực KH&CN, các chủ thể phải đề cao tinh thần trách nhiệm, chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch mang tính chất dài hạn. Trong quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực KH&CN trước hết cần xác định rõ mục tiêu tổng thể, dài hạn và các mục tiêu cụ thể, ngắn hạn. Quy hoạch phải bao quát được cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN theo các chuyên ngành KH&CN với các chức danh đảm nhiệm và những cơ cấu cụ thể: độ tuổi, trình độ học vấn, nhóm ngành hoạt động, chức danh chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu giới…
Bên cạnh đó, quy hoạch phải xác định cụ thể phạm vi và đối tượng: quy hoạch cán bộ chủ trì, quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, quy hoạch cán bộ nghiên cứu, quy hoạch bộ phận hỗ trợ, phục vụ nghiên cứu… Trong từng đối tượng phải tiêu chuẩn hóa các chức danh, lượng hóa được các yêu cầu về độ tuổi, học vấn, kinh nghiêm công tác, trình độ khoa học, kỹ thuật, tay nghề, bậc thợ…. Việc lượng hóa này sẽ tạo tiền đề cho việc lựa chọn quy hoạch, chiến lược đúng, đào tạo theo chuẩn và làm tiêu chí phấn đấu cho mỗi cán bộ KH&CN.
Trong quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực KH&CN cần xác định rõ nguồn và con đường, biện pháp xây dựng nguồn, bảo đảm sự phát triển liên tục của nguồn nhân lực này. Điều quan trọng hơn là phải đặt quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực KH&CN của nước ta trong mối liên hệ hữu cơ với các biện pháp khác như: đào tạo, đánh giá, trọng dụng và các chế độ, chính sách đãi ngộ.
Để có quy hoạch, chiến lược chính xác phải căn cứ vào tình hình nhiệm vụ KH&CN, đánh giá khách quan thực trạng nguồn nhân lực KH&CN, dự kiến được nhu cầu và khả năng phát triển này; từ đó có phương án tạo nguồn, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng… để bảo đảm sự phát triển liên tục, ổn định nguồn nhân lực này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KH&CN là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN của nước ta trong giai đoạn từ nay đến 2025 và ở những năm tiếp theo. Theo đó, cần quán triệt và triển khai quyết liệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khoá XI và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đặc biệt, các văn kiện Đại hội XIII gần đây cũng đã nhấn mạnh, giáo dục - đào tạo cần thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trong đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người.
Giải pháp về tài chính và đầu tư
Một là, phân bổ và sử dụng hợp lý ngân sách nhà nước dành cho phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội.
Hai là, cần đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN.
Ba là, đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nguồn nhân lực KH&CN.
Hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.
Hội nhập quốc tế toàn diện với xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN trên thế giới đã và đang đặt Việt Nam vào nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về KH&CN. Hơn lúc nào hết chúng ta càng phải thực hiện một cách thực chất các giải pháp mang tính đồng bộ, toàn diện để phát triển nhân lực KH&CN đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.
Để hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực KH&CN đạt hiệu quả cần đa dạng hoá đối tác và hình thức hợp tác quốc tế về KH&CN, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về KH&CN với hợp tác quốc tế về kinh tế. Ban hành chính sách thu hút chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài có trình độ cao đến Việt Nam tham gia nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, đảm đương các chức vụ quản lý nghiên cứu KH&CN. Tăng cường tối đa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN trong hợp tác quốc tế.
Mặt khác, cần xác định rõ đối tác chiến lược trong hợp tác nghiên cứu chung và địa bàn trọng điểm có công nghệ nguồn cần khai thác, chuyển giao. Triển khai hợp tác KH&CN tầm quốc gia với các nước tiên tiến về KH&CN. Tăng cường hợp tác giữa các trung tâm nghiên cứu trong nước với các tổ chức nghiên cứu KH&CN nước ngoài.
Nghiên cứu hình thành một số trung tâm KH&CN hiện đại có liên kết với các tổ chức khoa học tiên tiến nước ngoài. Có cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu tư, đất đai, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính... để tạo đột phá trong thu hút các chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN ở trong nước.
Tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu hàng đầu thế giới triển khai các chương trình nghiên cứu quốc tế, chương trình hợp tác song phương hướng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của đất nước. Xây dựng và triển khai nội dung, kế hoạch hợp tác KH&CN tầm quốc gia với các nước mạnh về KH&CN và là đối tác chiến lược của Việt Nam.
Mở rộng và nâng tầm quan hệ hợp tác với các nước có nền KH&CN tiên tiến, chú trọng mua sáng chế, giải mã và chuyển giao công nghệ phục vụ yêu cầu đổi mới công nghệ trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa công nghệ nhập khẩu và giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu.
------------------------------
(1) Organization for Economic Co-operation and Development - OECD (1995), Canberra Manual: The measurement of scientific and technological activities-Manual on the measurement of human resource devoted to S&T, OCDE/ GD (95)77, Paris.
(2) Chu Thị Bích Ngọc (2019), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, Tạp chí Tài chính điện tử, http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-trong-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-4-0-4729
(3) Mạnh Hùng (2021), Tương lai việc làm trong bối cảnh đại dịch Covid và cách mạng công nghiệp 4.0, truy cập tại: https://dangcongsan.vn/phong-chong-dich-covid-19/tuong-lai-viec-lam-trong-boi-canh-dai-dich-covid-va-cach-mang-cong-nghiep-40-585449.html
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(5) Đào Thị Thu Thủy (2020), Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của Việt Nam: Góc nhìn từ thực tiễn, Tạp chí nghiên cứu chính sách và quản lý - ĐH Quốc gia Hà Nội, số 2, tr.32-42.
(6) Ministry of Science and Technology of Vietnam, Results of the survey on Science research and technology development in 2018 (In Vietnamese),Hanoi, 2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Mạnh Hùng (2021), Tương lai việc làm trong bối cảnh đại dịch Covid và cách mạng công nghiệp 4.0, truy cập tại: https://dangcongsan.vn/phong-chong-dich-covid-19/tuong-lai-viec-lam-trong-boi-canh-dai-dich-covid-va-cach-mang-cong-nghiep-40-585449.html
3. Ministry of Science and Technology of Vietnam, Results of the survey on Science research and technology development in 2018 (In Vietnamese),Hanoi, 2018.
4. Chu Thị Bích Ngọc (2019), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, Tạp chí Tài chính điện tử, http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-trong-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-4-0-4729
5. Organization for Economic Co-operation and Development - OECD (1995), Canberra Manual: The measurement of scientific and technological activities-Manual on the measurement of human resource devoted to S&T, OCDE/ GD (95)77, Paris.
6. Đào Thị Thu Thủy (2020), Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của Việt Nam: Góc nhìn từ thực tiễn, Tạp chí nghiên cứu chính sách và quản lý - ĐH Quốc gia Hà Nội, số 2, tr.32-42.
Nguồn: vietq.vn/
lên đầu trang