Thứ ba, 21/05/2024 | 01:15
Bài báo sử dụng kỹ thuật phân tích cronbach alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA) để kiểm định độ tin cậy, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo các khái niệm của mô hình cấu trúc tuyến tính đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành gốm sứ thủy tinh công nghiệp Việt Nam.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như các yêu cầu cao hơn về sản xuất thương mại đã thúc đẩy quá trình nghiên cứu, chế tạo các loại lò nung có nhiệt độ nung cao hơn, điều khiển nhiệt độ chính xác hơn cũng như tiết kiệm nhiên liệu - nhân công hơn.
Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp đã thành công làm chủ công nghệ chế tạo vật liệu và sản xuất chụp khí bằng sứ dùng cho máy hàn TIG. Đồng thời, sản xuất 10 sản phẩm chụp khí bằng sứ dùng cho máy hàn TIG, tạo tiền đề để nghiên cứu sản xuất các sản phẩm sứ kỹ thuật có hình dạng phức tạp và độ chính xác cao.
Bài báo nghiên cứu xây dựng thang đo cho các khái niệm nghiên cứu của mô hình lý thuyết đánh giá lợi thế cạnh tranh ngành gốm sứ thủy tinh công nghiệp Việt Nam, sử dụng các thang đo của các công trình khoa học trong và ngoài nước, kết hợp với các khung lý thuyết về lợi thế cạnh tranh.
Nhằm khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên cao lanh, đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp và thị trường, Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp đã thực hiện đề tài “Hoàn thiện công nghệ, thiết bị chế biến sâu cao lanh vùng Lâm Đồng làm nguyên liệu trong công nghiệp sản xuất gốm sứ và sơn”
Kết quả của Dự án nhằm nâng cao chất lượng, khả năng sử dụng và gia tăng giá trị cao lanh, qua đó có thể khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên cao lanh, đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp và thị trường.
Vật liệu composite có khả năng kháng cháy tốt, vận tốc bắt cháy giảm khoảng 60% so vật liệu composite nhựa UPE. Kết quả nghiên cứu bước đầu chứng minh được tiềm năng của vật liệu composite trên cơ sở nhựa polyester không no và cao su clo hóa trong các sản phẩm kháng cháy.
Các nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp mới đây đã nghiên cứu, chế tạo thành công men phủ kim loại nhằm tạo ra nhiều sản phẩm phong phú hơn phục vụ nhu cầu đời sống của con người.
Chế tạo máy tráng men tự động với giá thành hợp lý nhằm thúc đầy sự phát triển của ngành sản xuất sứ dân dụng, tăng khả năng cạnh tranh của sản gốm sứ trên thị trường.
Việc nghiên cứu và tổng hợp thành công hệ gốm làm chất dẫn ion sẽ mở ra cơ hội mới cho các đơn vị sản xuất pin Li-ion rắn của Việt Nam, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của các công ty đa quốc gia trên thế giới.
Nhằm giải quyết bài toán về nguyên liệu cũng như các vấn đề môi trường trong sản xuất sứ dân dụng, KS. Nguyễn Thị Tỵ thuộc Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp đã triển khai đề tài “Nghiên cứu ứng dụng Silica siêu mịn từ tro trấu để giảm nhiệt độ nung trong sản xuất sứ dân dụng cao cấp”.
Cụ thể, kỹ sư Nguyễn Văn Duy cùng các cộng sự tại Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp đã xây dựng và hoàn thiện quy trình công nghệ, thiết bị sản xuất cyclon thủy lực hệ vật liệu gốm chịu mài mòn cao, được dùng trong công nghiệp tuyển khoáng. Công nghệ mới đã được ứng dụng trong các doanh nghiệp và đạt được nhiều kết quả tích cực.
KS. Nguyễn Văn Duy và các cộng sự tại Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp đã xây dựng và hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất bi nghiền ZrO2 cho máy nghiền bi – một thiết bị được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp khai thác đá, sản xuất xi măng, quặng, hóa chất, vật liệu xây dựng…
Viện Nghiên cứu Sành sứ và Thủy tinh Công nghiệp đã nghiên cứu chế tạo thành công sản phẩm cyclone sứ ứng dụng trong ngành tuyển lọc cao lanh, cho kết quả phân tách hạt mịn dưới 45^m đạt trên 98%.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu thuỷ tinh và các sản phẩm từ thuỷ tinh của Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2020 có tốc độ tăng trưởng bình quân là 2,1%/ năm. Kim ngạch xuất khẩu trung bình trong giai đoạn 2016 – 2020 đạt 916,7 triệu USD/năm.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Jena (Đức) và Đại học Cambridge (Anh) đã chế tạo thành công một hạng mục vật liệu thủy tinh lai, kết hợp các thành phần hữu cơ và vô cơ.
Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp đẩy mạnh các dịch vụ khoa học công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước thực hiện Nghị định số 60/NĐ-CP ngày 21 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong giai đoạn đến năm 2030, định hướng phát triển của Viện Nghiên cứu Sành sứ Thủy tinh Công nghiệp sẽ tập trung vào các công nghệ dẫn dắt đáp ứng yêu cầu phát triển ngành gốm sứ thủy tinh công nghiệp trong giai đoạn mới.
Thông qua việc thực hiện dự án thuộc Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao giai đoạn đến 2030 do Bộ Công Thương quản lý, Công ty Cổ phần thiết bị Bưu điện đã đầu tư nghiên cứu, xây dựng nhà máy và sản xuất thành công sợi thuỷ tinh dùng cho thông tin quang, đánh dấu bước chuyển trong việc chủ động nguồn nguyên liệu sản xuất và sử dụng sản phẩm công nghiệp công nghệ thông tin trong nước.
TS. Chu Văn Giáp - Viện trưởng Viện nghiên cứu Sành sứ Thuỷ tinh Công nghiệp chia sẻ về vai trò của KH&CN trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm sành sứ, thủy tinh phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.