Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ tư, 22/05/2024 | 02:30

Thứ tư, 22/05/2024 | 02:30

Tin KHCN

Cập nhật lúc 10:31 ngày 24/07/2013

Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KHCN

Với đặc thù quản lý đa ngành, Bộ Công Thương hiện quản lý24 viện nghiên cứu chuyên ngành, trong đó có 09 viện thuộc Bộ, và 49 trường (có 09 trường đại học).

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Công Thương, những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ KHCN trình độ cao cho các viện nghiên cứu và các trường luôn được quan tâm nhằm phát triển nguồn nhân lực rất quan trọng này. Công tác đào tạo đã bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của từng ngành, chú trọng tới các ngành then chốt, cân đối giữa nhu cầu cấp bách và lâu dài. Số lượng  cán bộ được đào tạo sau đại học và đào tạo ở nước ngoài ngày càng tăng. Hình thức đào tạo phong phú, đa dạng, như: đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn, cập nhật kiến thức mới, cử cán bộ có năng lực đi khảo sát, thăm quan ở nước ngoài; đào tạo thông qua triển khai các đề tài, dự án, cử cán bộ đi học chính quy dài hạn ở các vịên, trường đại học trong và ngoài nước.


Hàng năm, Bộ Công Thương đã dành hàng chục tỷ đồng cho hoạt động nghiên cứu khoa học;đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ thống các trường đào tạo (bình quân từ 6 đến 8 tỷ đồng/năm cho một trường), chuyển đổi mô hình quản lý theo hướng nâng cao, tinh gọn, tự chịu trách nhiệm, đưa ra các chính sách, các quy định mới để các đơn vị có cơ sở cử cán bộ nghiên cứu, cán bộ giảng dạy đi học tập nâng cao trình độ. Đồng thời, thực hiện đồng bộ các giải pháp về bố trí, sử dụng, đãi ngộ cán bộ, đã góp phần làm cho lực lượng KHCN phát triển mạnh.

 Luôn quan tâm đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ KHCN, ngành Công Thương đã có được một đội ngũ cán bộ KHCN trình độ cao mà phần lớn đã được rèn luyện, thử thách và trưởng thành qua các thời kỳ phát triển của Ngành, tâm huyết với nghề nghiệp. Đội ngũ cán bộ KHCN đã có những đóng góp tích cực trong việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu cả về mặt công nghệ, sản phẩm, phân công chuyên môn hóa, cũng như đào tạo phát triển nguồn nhân lực KHCN. Từ đó, hoạt động KHCN của Ngành khẳng định được vai trò, góp phần giải quyết các yêu cầu của sản xuất trong các lĩnh vực chế tạo, khai thác khoáng sản, năng lượng..., qua đó nhiều chương trình KHCN gắn với các chương trình phát triển kinh tế- xã hội.

Mặc dù vậy, để đáp ứng với yêu cầu trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Ngành cần phải khắc phục những mặt hạn chế, bất cập cả về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực KHCN, sự thiếu cân đối trong ngành nghề, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn và công nghệ cao. Đội ngũ cán bộ KHCN có trình độ cao đang bị già hóa, thiếu đội ngũ trẻ kế cận bổ sung. Các viện nghiên cứu, các trường đại học của Ngành đang thiếu cán bộ đầu ngành có trình độ khoa học cao, chuyên môn sâu và giàu kinh nghiệm thực tiễn (số người có học vị tiến sĩ khoa học kỹ thuật chiếm tỷ lệ nhỏ và chủ yếu làm công tác quản lý), nguồn kế cận mỏng, lại đang có tình trạng hẫng hụt chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Thêm vào đó, trong những năm gần đây, do yêu cầu phát triển của Ngành, các đơn vị nghiên cứu, các trường đã được nâng cấp và mở rộng, tiếp nhận thêm các đơn vị mới. Do đó đã dẫn tới sự thiếu hụt về số lượng, chất lượng của nguồn nhân lực KHCN trình độ cao. Có thể đơn cử: Số lượng cán bộ viên chức các đơn vị khối đào tạo là 18.160 người. Tỷ lệ có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ 41,6%; các đơn vị khoa học 1.240 người, trong đó thạc sỹ, tiến sỹ là 19,3%. Tiến sỹ và nghiên cứu sinh trong các trường đại học chỉ đạt 6,31% (trong đó có 257 người đang làm nghiên cứu sinh), thạc sỹ chiếm 38,1%. Các trường cao đẳng, tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều, chỉ đạt 1,22% tiến sỹ và 30,5% thạc sỹ.

Trong những năm tới, để nâng cao năng lực cạnh tranh đáp ứng với nhu cầu phát triển và hội nhập của đất nước, ngành Công Thương đòi hỏi phải đào tạo  nhân lực các trình độ với quy mô và cơ cấu ngành nghề phù hợp với quy hoạch phát triển của Ngành, ngang tầm với khu vực. Để đạt được điều đó, nhân lực KHCN trình độ cao ở các viện, trường  phải đi trước một bước.

Lộ trình đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho các viện, trường, DN KHCN đã được Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh chỉ ra: “Để thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vai trò và trách nhiệm của các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu khoa học của ngành là hết sức quan trọng.Bộ đã chỉ đạo các cơ sở nghiên cứu khoa học và cơ sở đào tạo tạo điều kiện cho cán bộ viên chức chuẩn bị các điều kiện cần thiết, trước hết là trình độ ngoại ngữ để tham gia vào đề án đào tạo 20.000 tiến sĩ ở nước ngoài của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ theo Đề án 165, chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ ở trong nước. Tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo giảng viên, nghiên cứu viên và cán bộ quản lý, bao gồm đào tạo mới, đào tạo bồi dưỡng...” Thực hiện sự chỉ đạo này, trong những năm tới, chúng ta phải tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của KHCN và đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong Ngành, từ đó xây dựng chính sách, quy chế đồng bộ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức trong các tổ chức nghiên cứu và đào tạo KHCN. Đổi mới các tiêu chí, phương pháp đánh giá, chế độ đãi ngộ xứng đáng, công bằng, phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp.

Thứ hai là, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ KHCN có trình độ cao. Phối hợp với các Bộ liên quan làm rõ thẩm quyền chuyên môn, trách nhiệm và các quyền lợi vật chất, tinh thần của các nhà khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ KHCN có trình độ cao yên tâm công tác lâu dài, cống hiến cao nhất về năng lực, trí tuệ, sức sáng tạo.  Điều này sẽ thu hút lực lượng cán bộ KHCN trẻ có năng lực, tạo điều kiện để họ mang hết khả năng làm việc học tập, phát triển cả về trình độ và kinh nghiệm thực tiễn, là cơ sở để đào tạo đội ngũ cán bộ KHCN trình độ cao. Đồng thời, cũng cần có các quy định chặt chẽ để chống “chảy máu chất xám” trong quá trình đào tạo.

Thứ ba, cần nhanh chóng thực hiên việc quy hoạch và xây dưng mô hình tự chủ; tính toán đánh giá và sắp xếp lại các viện nghiên cứu, các trường thuộc Bộ và các viện nghiên cứu các trường thuộc Tập đoàn, Tổng công ty cho phù hợp với nhu cầu.Nghiên cứu mở rộng quyền tự chủ cho các viện, trường, sớm ban hành các quy định cụ thể. Từ  đó, các đơn vị tự hoạch định chiến lược đào tạo nguồn nhân lực KHCN trình độ cao cho mình và chủ động thực hiện.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới phương pháp nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Ưu tiên những ngành nghề đặc thù và công nghệ mới, tập trung cao cho việc đào tạo ngoại ngữ. Ưu tiên lựa chọn nguồn là những cán bộ, có năng lực tiếp thu, có khả năng phát huy và ứng dụng sáng tạo vào thực tiễn, có độ tuổi và sức khỏe phục vụ lâu dài, tâm huyết với Ngành.

Thứ năm, tăng cường công tác tự đào tạo, tự bồi dưỡng. Tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ KHCN có trình độ cao phát huy tốt khả năng nghiên cứu, sáng tạo phục vụ sản xuất. Bao gồm phân công, bố trí vị trí công tác, thử thách bằng các nhiệm vụ cụ thể để trải nghiệm thực tiễn, tiếp cận thị trường KHCN, các hoạt động hợp tác đào tạo, nghiên cứu trong và ngoài nước về khoa học công nghệ... Cần đặc biệt chú ý đến các nhiệm vụ liên quan đến các dự án đầu tư tiếp nhận, chuyển giao công nghệ từ các đối tác nước ngoài để họ có điều kiện tiếp cận, học tập kinh nghiệm.

Thứ sáu là, tăng cường xây dựng mô hình liên kết hợp tác giữa viện, trường và doanh nghiệp sản xuất, coi đó là phương tiện để thúc đẩy quá trình tự bồi dưỡng nâng cao của đội ngũ cán bộ KHCN. Đây là một phương pháp quan trọng, hiệu quả được nhiều nước trên thế giới áp dụng để đào tạo, bồi dưỡng  cán bộ KHCN trình độ cao.

Thứ bảy là tăng cường kinh phí đầu tư. Ưu tiên nguồn lực cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ KHCN đầu ngành, tăng dần tỷ lệ kinh phí dành cho đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu trình độ cao, tăng cường đầu tư cho các cơ sở đào tạo, các viện nghiên cứu trọng điểm. Nghiên cứu đưa ra các quy định về năng lực, đặc biệt là về trình độ cán bộ KHCN để đấu thầu thầu trong nghiên cứu khoa học và giao nhiệm vụ đào tạo.Có các chính sách để huy động nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước ngoài ngân sách như đóng góp của các doanh nghiệp, học bổng du học, các nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ...

Trong giai đoạn hiện nay, với chủ trương tăng cường lực lượng KHCN, đổi mới quy hoạch và xây dựng mô hình tự chủ, nâng cấp và mở rộng các cơ sở nghiên cứu và đào tạo của ngành Công Thương, công tác đào tạo cán bộ KHCN trình độ cao cho các viện, trường đào tạo cần được quan tâm đặc biệt. Có như vậy mới đáp ứng với nhu cầu về đổi mới, cải tiến công nghệ, phát triển các sản phẩm,đưa các hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ ngày càng gắn với nhu cầu của thị trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển của Ngành, làm tăng sức cạnh tranh của Ngành trên thị trường thế giới và đóng góp tích cực vào thành công của "Đề án phát triển thị trường công nghệ".

  Lập Thu

lên đầu trang