Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ ba, 21/05/2024 | 07:42

Thứ ba, 21/05/2024 | 07:42

Tin KHCN

Cập nhật lúc 15:40 ngày 14/10/2015

Nghiên cứu chính sách, giải pháp nhằm phát triển bền vững xuất khẩu mặt hàng thủy sản Việt Nam

Thủy sản là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 2004-2014 đạt 12,51%, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chung của cả nước(bình quân chiếm 7,02% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong giai đoạn 2004-2014) và nằm trong top 5 các nhóm hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất của cả nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và thành tựu đạt được, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam những năm qua chưa thực sự phát triển bền vững trên cả ba mặt kinh tế, môi trường và xã hội. Phát triển bền vững xuất khẩu mặt hàng thủy sản đang đặt ra hết sức cấp bách đối với nước ta trong giai đoạn tăng trưởng mới, giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, với các yêu cầu mục tiêu chủ yếu là coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng, ổn định xã hội, bảo vệ tốt môi trường sinh thái

Thời gian qua, quá trình xây dựng và hoạch định chính sách nhằm phát triển bền vững xuất khẩu thủy sản còn những hạn chế, thiếu sót, việc thực thi chính sách thiếu kiểm soát và chưa thực sự hiệu quả, thiếu các quy định xử lý nghiêm minh nên còn dẫn tới nhiều sai phạm, nhất là các vi phạm về quy hoạch và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, phát triển bền vững xuất khẩu thủy sản cần có những chính sách đúng đắn và phù hợp, được xây dựng trên cơ sở khoa học về phát triển bền vững, tính đến một cách hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Bên cạnh đó, cần có các biện pháp hữu hiệu để kiểm định chính sách, đồng thời giám sát thực thi chính sách phát triển bền vững xuất khẩu thủy sản hiệu quả.

CHÍNH SÁCH NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004-2014

Những thành tựu đạt được trong hoạch định và thực thi chính sách nhằm PTBV xuất khẩu thủy sản

Nhìn chung, hệ thống chính sách xuất khẩu thủy sản liên quan đến việc nâng cao chất lượng tăng trưởng của Việt Nam khá đầy đủ. Nhà nước đã có những đề án, chương trình thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 cho các lĩnh vực từ quy hoạch và chính sách đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, con giống phục vụ nuôi trồng thủy sản; chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang các sản phẩm chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng; chính sách mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu thủy sản, tăng cường xúc tiến thương mại; đến các chính sách tài chính, tín dụng nhằm phát triển xuất khẩu thủy sản; chính sách phát triển cơ sở hạ tầng, hậu cần dịch vụ thủy sản phục vụ xuất khẩu. Đây là khung khổ pháp lý cho các cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp, hộ nuôi trồng thực thi để ngành thủy sản PTBV.

Ngành thủy sản nói chung và các doanh nghiệp chế biến thủy sản nói riêng đã sớm tiếp cận và thực hiện Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) và Hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS), cụ thể:

Đã xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng, VSATTP, thú y thủy sản. Các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng, VSATTP thủy sản đã được xây dựng, cập nhật và bổ sung trên cơ sở hướng dẫn của Uỷ ban Tiêu chuẩn Thực phẩm Codex quốc tế, Tổ chức sức khỏe động vật thế giới (OIE) cũng như yêu cầu của các thị trường nhập khẩu. Nhìn chung, các tiêu chuẩn VietGAP đã tích hợp được các yêu cầu của quốc tế về chất lượng và VSATTP. Về khía cạnh xã hội và quản lý môi trường, VietGAP cũng đã tích hợp các yêu cầu của quốc tế về bảo vệ môi trường, cũng như các quy định nuôi trồng thủy sản phải chấp hành nghiêm chỉnh các thỏa thuận liên quan của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)…;

Đã xây dựng và vận hành khá tốt cơ quan kiểm soát chất lượng, VSATTP theo chuỗi từ trung ương đến địa phương, mặc dù còn những hạn chế trong việc đầu tư cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý chuyên trách có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ ở các cấp, bước đầu góp phần thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực VSATTP trong sản xuất nguyên liệu thủy sản;

Đã thực hiện thỏa thuận hợp tác với cơ quan có thẩm quyền của các nước nhập khẩu để giảm thiểu việc kiểm tra 2 lần lô hàng thủy sản xuất khẩu sang các thị trường như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada, đồng thời tiếp tục mở rộng hợp tác với cơ quan có thẩm quyền của các nước khác như Nga, Nhật Bản, Ucraina, Campuchia;

Tổng cục Thủy sản đã tích cực tuyên truyền, phổ biến Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (VietGAP) và hướng dẫn áp dụng VietGAP cho 3 đối tượng nuôi - xuất khẩu chủ lực của Việt Nam: cá tra (Pangasianodon hypophthalmus), tôm sú (Penaeus monodon) và tôm chân trắng (Penaeus vannamei) để khai thác thế mạnh và tiềm năng lớn trong lĩnh vực nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản từ nuôi.

Việt Nam đã ban hành một số chính sách góp phần giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình phát triển xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng, tập trung chủ yếu vào các nhóm chính sách nhằm hỗ trợ đối với những đối tượng gặp khó khăn, rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu thủy sản, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ nuôi trồng thủy sản.

Một số vấn đề tồn tại đối với hoạch định và thực thi chính sách nhằm PTBV xuất khẩu thủy sản

Mặc dù Việt Nam đã có bước tiến dài trong cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích phát triển xuất khẩu, song quá trình hoạch định và thực thi chính sách phát triển bền vững xuất khẩu thủy sản còn tồn tại nhiều hạn chế:

Việc xây dựng chính sách PTBV xuất khẩu mặt hàng thủy sản chưa thực sự dựa trên các căn cứ khoa học về PTBV. Phát triển xuất khẩu thủy sản mặc dù có đóng góp to lớn vào tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, nhưng đang tiềm ẩn nguy cơ phát triển không ổn định và thiếu bền vững, xung đột với các mục tiêu về môi trường và xã hội.

Quá trình xây dựng và hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu thủy sản chưa thật sự quan tâm đến chất lượng tăng trưởng, thiên về chỉ tiêu số lượng, coi nhẹ những ảnh hưởng tiêu cực của xuất khẩu đối với xã hội và môi trường, duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chưa chú trọng đúng mức để tạo tiền đề (môi trường kinh doanh, nguồn nhân lực, công nghệ, cơ sở hạ tầng) cho việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng cho mặt hàng thủy sản xuất khẩu.

Thiếu cơ chế giám sát thực hiện chính sách nhằm PTBV xuất khẩu thủy sản và việc tuân thủ các quy hoạch ngành thủy sản, chưa có quy định bắt buộc thực hiện quy hoạch và chế tài kiểm soát, xử lý các vi phạm về quy hoạch, cũng như các vi phạm về bảo vệ môi trường liên quan đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu thủy sản. Do đó, việc thực hiện các quy định này của các hộ nuôi trồng, doanh nghiệp thủy sản chưa nghiêm túc, một mặt chưa đáp ứng tốt mục tiêu cung cấp đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu những nguyên liệu thủy sản có chất lượng và đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, mặt khác gây ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.

Hệ thống chính sách phát triển xuất khẩu thủy sản chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chất lượng các văn bản chưa cao. Trong khi đó, còn quá nhiều quy định chồng chéo trong các quyết định về định hướng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch tổng thể hay đề án phát triển ngành, dẫn đến khó thực thi hoặc thực thi kém hiệu quả. Bên cạnh đó, nhiều quyết định vừa mới ban hành đã bộc lộ những bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp thực hiện, buộc phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng các quyết định khác.

Các biện pháp về hành chính và thủ tục hải quan, kiểm nghiệm hàng hóa xuất khẩu vẫn còn rườm rà, ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt hàng tươi sống như thủy sản, còn quá nhiều các quy định chồng chéo lẫn nhau gây mất thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.

Chính sách đảm bảo PTBV xuất khẩu thủy sản nhằm giám sát chất lượng, VSATTP đã được đề cập, từ đó nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường đối với các mặt hàng thủy sản xuất khẩu, song các quy định, tiêu chuẩn chất lượng, môi trường đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng chuẩn mực quốc tế còn quá ít. Đặc biệt, còn thiếu các chính sách, quy định cụ thể nhằm nâng cao chất lượng thủy sản xuất khẩu thông qua việc đầu tư phát triển sản phẩm xuất khẩu mới, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, chế biến xuất khẩu, cũng như các quy định về đẩy mạnh phát triển thương hiệu thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Các chính sách đảm bảo PTBV xuất khẩu thủy sản trên khía cạnh môi trường như các chính sách kiểm tra, giám sát các vi phạm về bảo vệ môi trường (BVMT) trong hoạt động xuất khẩu thủy sản, các quy định liên quan đến trách nhiệm bảo hiểm, bồi thường thiệt hại, khắc phục ô nhiễm môi trường và chế tài xử phạt vi phạm quy định môi trường trong hoạt động sản xuất, chế biến thủy sản xuất khẩu còn lỏng lẻo, chưa nghiêm khắc và chưa đủ tính răn đe, do đó chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác quản lý môi trường cũng như phòng ngừa, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT, tình trạng vi phạm các quy định về môi trường trong sản xuất, chế biến thủy sản xuất khẩu còn khá phổ biến.

Các chính sách nhằm đảm bảo PTBV xuất khẩu thủy sản trên khía cạnh xã hội còn rất thiếu, nhất là các chính sách đảm bảo các quyền về lao động, nâng cao thu nhập và chất lượng lao động, cải thiện điều kiện lao động trong hoạt động xuất khẩu thủy sản, hay các chính sách xử lý xung đột xã hội, đảm bảo chia sẻ lợi ích hợp lý, bình đẳng trong kinh doanh xuất khẩu thủy sản. Đặc biệt, mức độ phê chuẩn và thực hiện các cam kết đáp ứng các quy định, điều khoản về tiêu chuẩn lao động, đảm bảo các quyền về lao động, cải thiện điều kiện làm việc, vệ sinh, an toàn công nghiệp của Việt Nam trong các hiệp định song phương, các công ước của ILO còn rất thấp. Việt Nam ngày càng phải đối phó với vấn đề lao động và công đoàn liên quan đến xuất khẩu do các quy định về lao động trong các FTA Việt Nam đang đàm phán ngày càng cao và khắt khe hơn. Như vậy, vấn đề lao động và công đoàn sẽ là một trong những thách thức và trở thành rào cản thương mại trong thời gian tới đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam.

Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại

Thứ nhất, chưa nhận thức đúng và đầy đủ về PTBV trong việc hoạch định và thực thi chính sách nhằm PTBV xuất khẩu thủy sản.

Thứ hai, năng lực xây dựng, ban hành và giám sát việc thực thi pháp luật, chính sách nhằm PTBV xuất khẩu thủy sản còn nhiều hạn chế, nhất là việc giám sát hoạt động xuất khẩu thủy sản nhằm tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường còn yếu kém, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của PTBV trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 

Thứ ba, việc hoạch định chính sách thiếu sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, hiệp hội ngành nghề, trong đó chỉ nêu các quy định chính sách mà thiếu kế hoạch hành động hoặc hướng dẫn thi hành cụ thể.

Thứ tư, hầu hết chính sách được xây dựng với sự can dự hạn chế của doanh nghiệp. Chính phủ Việt Nam gần như không có các cuộc trao đổi, đối thoại nhiều với các doanh nghiệp. Đây là điểm hạn chế lớn trong quá trình xây dựng chính sách phát triển thủy sản ở Việt Nam.

Thứ năm, thể chế liên kết giữa các vùng kinh tế trọng điểm, các địa phương còn lỏng lẻo, thiếu liên kết giữa các khâu sản xuất nguyên liệu và chế biến xuất khẩu thủy sản. Tình trạng các địa phương trong vùng xây dựng chiến lược phát triển xuất khẩu gần giống nhau, ít chú ý đến khai thác lợi thế khác biệt của từng địa phương, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, chưa khai thác tốt và phát huy lợi thế của cả nước, của các vùng kinh tế trọng điểm và của từng địa phương trong xuất khẩu thủy sản.

Thứ sáu, kiến thức và nhận thức xã hội liên quan đến đảm bảo các quyền về lao động, lao động trẻ em, bảo hiểm lao động, hay vấn đề xử lý các xung đột xã hội, đảm bảo chia sẻ lợi ích hợp lý, bình đẳng trong kinh doanh xuất khẩu thủy sản của các nhà quản lý, hoạch định chính sách trong cả các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp đều còn hạn chế, do đó gặp nhiều khó khăn trong việc thực thi các quy định, cam kết về tiêu chuẩn lao động và quyền lao động, cũng như đáp ứng yêu cầu rất cao đối với những vấn đề liên quan đến lao động và công đoàn trong các đàm phán thương mại quốc tế, nhất là trong đàm phán Hiệp định TPP.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐẢM BẢO PTBV XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020

Giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng xuất khẩu thủy sản

Đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, con giống; điều chỉnh và giám sát thực hiện tốt quy hoạch nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản. Trên cơ sở quy hoạch đề ra, cần tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch, tăng cường tính công khai, minh bạch đối với các loại quy hoạch. Từ trước đến nay chưa có quy chế để xử lý việc vi phạm quy hoạch nên có nhiều quy hoạch dù đã được xây dựng nhưng không thu lại kết quả cao. Do vậy, để các quy hoạch khai thác, chế biến và quản lý vùng nuôi an toàn dịch bệnh, môi trường, an toàn thực phẩm, cần phải có sự đồng thuận của các tỉnh, địa phương và doanh nghiệp trong việc thực hiện quy hoạch và có chế tài xử lý nghiêm những vi phạm về quy hoạch.

Tái cơ cấu ngành thủy sản hướng tới PTBV, chuyển dịch cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang các sản phẩm chế biến sâu, đầu tư phát triển sản phẩm mới có giá trị gia tăng; đa dạng hóa sản phẩm thủy sản chế biến và phát triển thương hiệu thủy sản Việt Nam. Tập trung chuyển dịch cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu theo hướng nâng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu, chế biến tinh, ứng dụng công nghệ sinh học, hạn chế tối đa xuất khẩu sản phẩm thô, giảm nhanh tỷ trọng sản phẩm sơ chế trong cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu, góp phần bảo tồn và phát huy nguồn lợi thủy sản.

Đa dạng hóa và phát triển thị trường mới cho xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm. Trước hết, thực hiện tốt các biện pháp giữ vững thị trường truyền thống, tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng và thực hiện đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Hoàn thiện hệ thống thông tin thương mại để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu nắm bắt các kênh thông tin về thị trường xuất khẩu; thường xuyên cung cấp, cập nhật thông tin về thủ tục, quy định nhập khẩu, cũng như nguy cơ bị đánh thuế chống bán phá giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.

Nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường, đảm bảo chất lượng, VSATTP đối với mặt hàng thủy sản xuất khẩu, từ đó tăng số lượng các doanh nghiệp đạt được các chứng nhận chất lượng và môi trường quốc tế có xu hướng ngày càng khắt khe của các nước nhập khẩu.

Cần kiên trì theo đuổiđường lối phát triển hướng về xuất khẩu và hoạch định một chiến lược phát triển bền vững xuất khẩu thủy sản quốc gia. Nỗ lực thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, đầu tư thông qua đẩy nhanh đàm phán và ký kết các Hiệp định thương mại song phương và khu vực nhằm tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn cho thủy sản xuất khẩu, như Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EFTA), Liên minh Hải quan Nga - Belarut - Kazakhstan (VCUFTA), tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... Chủ động tiếp cận, đàm phán với các đối tác, quốc gia để giải quyết những tranh chấp, tháo gỡ các rào cản đối với thương mại, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu thủy sản.

Thực thi hiệu quả các chính sách đầu tư, tài chính, tín dụng hỗ trợ phát triển sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản. Trước hết, nên tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ lãi suất như quy định trong Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản, kèm theo Thông tư hướng dẫn thi hành số 22/2014/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước. Triển khai quyết liệt các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu thủy sản đối với những đối tượng gặp khó khăn, rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo kịp thời, hiệu quả và đúng đối tượng. Có biện pháp hỗ trợ đặc biệt đối với các DNVVN trong các ngành hàng xuất khẩu thu hút nhiều lao động như thủy sản trong trường hợp có biến động xấu về thị trường, thời tiết làm hạn chế xuất khẩu để tránh người nông dân và người lao động mất thu nhập, việc làm.

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hậu cần dịch vụ thủy sản phục vụ xuất khẩu; đơn giản hóa thủ tục kiểm nghiệm và hải quan, từ đó giảm thời gian, tiết kiệm chi phí và tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.

Giải pháp chính sách đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu thủy sản và BVMT

Tăng cường công tác BVMT, hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, hạn chế khai thác tài nguyên, bảo tồn nguồn lợi thủy sản. Bên cạnh các biện pháp, chính sách khuyến khích xuất khẩu, cần phải chú trọng xây dựng và thực thi các biện pháp chính sách hạn chế, cấm xuất khẩu phù hợp với cam kết quốc tế để thực hiện các mục tiêu PTBV về xã hội và môi trường, không nên khuyến khích xuất khẩu bằng mọi giá. Có thể nghiên cứu áp dụng các biện pháp như: tạm ngừng xuất khẩu, cấm xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế, sản phẩm gây tác động xấu tới môi trường, thông qua việc ban hành danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, xuất khẩu có điều kiện, giấy phép xuất khẩu, danh mục xuất khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành của các Bộ, danh mục các loài thủy sản bị cấm khai thác, cấm khai thác có thời hạn và khu vực, thời gian cấm khai thác… trong từng giai đoạn nhất định nhằm hạn chế khai thác tài nguyên, bảo tồn nguồn lợi thủy sản.

Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm về BVMT trong hoạt động xuất khẩu thủy sản. Trước hết, cần nâng cao năng lực giám sát việc thực thi pháp luật về BVMT trong hoạt động xuất khẩu thủy sản, bảo đảm yêu cầu về BVMT trong mọi khâu của quy trình xây dựng và thực thi chính sách xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu của quản lý Nhà nước về BVMT trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Giải pháp chính sách đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu thủy sản và giải quyết các vấn đề xã hội

Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý và chất lượng nguồn nhân lực ngành thủy sản. Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các trung tâm đào tạo, tư vấn kỹ thuật, trung tâm kiểm định trong việc phổ biến và hỗ trợ đào tạo cho các doanh nghiệp chế biến và người sản xuất nguyên liệu các vấn đề về hệ thống quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, quản lý môi trường vùng nuôi, trách nhiệm xã hội, nghề nghiệp…, đáp ứng các quy định trong Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, VSATTP, các quy định và chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng, VSATTP như ISO 9000, HACCP, tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000. Đồng thời, nâng cao năng lực đội ngũ chuyên gia tư vấn, đào tạo chuyên môn sâu và trau dồi kinh nghiệm nhằm tư vấn thông tin, hỗ trợ kỹ thuật và nhân rộng các mô hình nuôi theo hướng áp dụng VietGAP đối với nuôi thương phẩm các sản phẩm chủ lực như cá tra, tôm sú, tôm chân trắng, tiến tới lựa chọn ứng dụng các quy trình kỹ thuật nuôi tiên tiến khác, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Đảm bảo các quyền về lao động, cải thiện điều kiện lao động trong hoạt động xuất khẩu thủy sản, đặc biệt cần tích cực, chủ động đàm phán các quy định về đảm bảo các quyền về lao động, cải thiện điều kiện làm việc, vệ sinh, an toàn công nghiệp trong quá trình tham gia các hiệp định song phương và phê chuẩn thực hiện các cam kết trong các công ước của ILO; đáp ứng các quy định, điều khoản và cam kết về tiêu chuẩn lao động và công đoàn ở mức cao trong quá trình đàm phán Hiệp định TPP, từ đó giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam vượt qua các rào cản thương mại liên quan đến vấn đề lao động và công đoàn của các nước nhập khẩu chủ yếu như Hoa Kỳ.

Đảm bảo chia sẻ lợi ích hợp lý, bình đẳng giữa những người tham gia xuất khẩu thủy sản, xử lý các xung đột xã hội, hạn chế phân hóa giàu nghèo, bên cạnh việc có các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến ngành thủy sản và hỗ trợ kịp thời cho người nuôi trồng thủy sản trong các vùng bị ảnh hưởng.

ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa

Viện Nghiên cứu Thương mại

 

 

 

 

 

lên đầu trang