Thứ ba, 21/05/2024 | 02:19
Than trấu, một loại than sinh học giàu carbon, có thể được biến tính với các thành phần hoạt hóa khác để nâng cao hiệu quả xử lý các hợp chất hữu cơ ô nhiễm trong môi trường. Trong nghiên cứu này, trấu được nung trong lò kín ở nhiệt độ 600oC để tạo ra than trấu (BC600).
Nước thải chứa một lượng lớn các chất hữu cơ chưa qua xử lý mà xả thải trực tiếp vào các nguồn nước tiếp nhận sẽ gây tác động xấu đến môi trường. Nghiên cứu này ứng dụng mô hình UASB (Upflow Anaerobic Sludge Blanket) để xử lý COD (Chemical Oxygen Demand) của nước thải có độ mặn cao - nước thải từ hoạt động sản xuất nước tương.
Nước xuất hiện ở mọi nơi trong cuộc sống, là yếu tố không thể thay thế. Đảm bảo nguồn cung cấp nước sạch được là mục tiêu của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Nhằm giảm thiểu chi phí vận hành, hỗ trợ hiệu quả xử lý nước thải của ngành công nghiệp luyện kim, năm 2020, Viện Khoa học công nghệ Mỏ - Luyện kim (VIMLUKI) đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu thiết kế và chế tạo thiết bị biến tần hỗ trợ hiệu quả xử lý nước thải”.
Theo thông tin từ Viện Nghiên cứu Da giầy (LSI) hệ thống xử lý nước thải chuyên dụng có công suất 40 m3/ngày đêm được lắp đặt tại Khu công nghiệp Từ Sơn (Bắc Ninh). Đây là dự án phát triển từ thành công của mô hình pilot do Viện LSI thực hiện, kinh phí hỗ trợ từ nguồn của Bộ Công Thương.
Nước thải của sản xuất bột giấy có nồng độ ô nhiễm cao. Các thông số ô nhiễm dao động trung bình trong khoảng 700-1200mg/l với COD và 100-450 mg/l với TSS và pH trong khoảng từ 6-9.
Giá thể sinh học tự do (MBBR - Moving Bed Biofilm Reactor) đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong xử lý nước thải. Ưu điểm của phương pháp này là dễ áp dụng do không phải cải tạo phần cứng các hệ thống đang vận hành.
Việt Nam là một nước đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước rất được chú trọng, hàng loạt các công trình xây dựng công ty, nhà máy, nhà xưởng, doanh nghiệp đã và đang được xây dựng với quy mô từ nhỏ đến lớn.
Để giải quyết được vấn đề ô nhiễm mỏ than, tối ưu hóa về chi phí và không tạo ra ô nhiễm thứ cấp, hướng xử lý bằng các công nghệ sinh thái và phương pháp chuyển hóa sinh học cho thấy sự phù hợp về cả hiệu quả xử lý và giá thành.
Bùn sinh học hiếu khí của đề tài nghiên cứu khắc phục được hầu hết những nhược điểm của chế phẩm hiện có trên thị trường, có ưu điểm vượt trội so với các loại bùn hoạt tính thông thường và ứng dụng khả năng xử lý bùn với nước thải nhà ăn.
Quá trình nghiên cứu xử lý nước thải sinh hoạt bằng công nghệ MBBR sử dụng giá thể biochip M nhằm mục đích ứng dụng phương pháp xử lý sinh học hiệu quả để xử lý nước thải ký túc xá.
Kết quả nghiên cứu ứng dụng trong xử lý Cr(VI) trong nước thải mạ crom Công ty THHH Bowang khu công nghiệp Điềm Thuỵ huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên hiệu suất hấp phụ đạt 99,5%
Sản phẩm phân bón lá sinh học FV-01 được sản xuất dựa trên nguồn nguyên liệu tận dụng từ nguồn nước thải kiềm có nguồn gốc rong biển là thế mạnh trong việc cạnh tranh về giá đối với các sản phẩm nhập khẩu thương mại trên thị trường
TKV đã hoàn thành vượt khối lượng các công trình môi trường trên địa bàn TP. Cẩm Phả đề ra trong "Đề án đảm bảo môi trường cấp bách ngành than giai đoạn 2016-2021".
Các nhà nghiên cứu đã phát triển một chất xúc tác có khả năng phá hủy thuốc và các hợp chất khác có trong nước thải để tạo ra nhiên liệu hydro, loại bỏ chất gây ô nhiễm trong khi tạo ra một thứ hữu ích.
Dự án của chúng tôi tập trung thiết kế một hệ thống tổng thể, nhằm xây dựng một sản phẩm mang thương hiệu trong nước, khắc phục các nhược điểm tất cả các trạm quan trắc tự động hiện nay"
Bùn thải từ các trạm xử lý nước thải thường chứa một lượng lớn chất hữu cơ cũng như các hợp chất chứa Nitơ và Phospho… đây là các thành phần dinh dưỡng có thể tái sử dụng làm phân bón, chất cải tạo đất hay các sản phẩm hữu ích khác. Tuy nhiên, trong bùn thải này cũng chứa đồng thời các chất ô nhiễm và các vi sinh vật (virus, vi khuẩn hoặc ký sinh trùng) do đó nếu bùn không được quản lý và xử lý hợp lý thì không những sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mà còn lãng phí mất một nguồn tài nguyên
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra rất mạnh mẽ, rất nhiều khu công nghiệp được quy họach xây dựng và đưa vào hoạt động. Các khu công nghiệp trên cả nước đã và đang góp phần mang lại giá trị cao cho nền kinh tế, nâng cao thu nhập quốc dân và giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho người dân.
Hiện nay, ngành dệt nhuộm đang có những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, đặc biệt là gây ô nhiễm nguồn nước. Để giải quyết thực trạng này, GS.TS Nguyễn Văn Phước, nguyên Viện trưởng Viện Môi trường và Tài nguyên (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) đã nghiên cứu hệ thống loại bỏ các chất hữu cơ gây ô nhiễm trong nước thải dệt nhuộm, và tái sử dụng nước thải cho mục đích nhuộm.
Giải pháp do nhóm nghiên cứu Khoa Kỹ thuật Hóa học và Môi trường, trường Đại học Lạc Hồng đã đưa ra các thông số ảnh hưởng đến quá trình loại bỏ photpho hòa tan của xỉ thép trong nước thải; đánh giá được tính ổn định và khả năng tái sử dụng của xỉ thép và đề xuất giải pháp ứng dụng xỉ thép cho các công trình xử lý nước thải chế biến thủy hải sản và các loại nước thải có chứa hàm lượng photpho cao.