Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ bảy, 27/04/2024 | 16:24

Thứ bảy, 27/04/2024 | 16:24

Kết quả nhiệm vụ KHCN

Cập nhật lúc 08:54 ngày 20/03/2024

Ứng dụng công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của sản phẩm chè xanh xao lăn

Việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất đã giúp Công ty Cổ phần trà Than Uyên nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm chè xanh xao lăn phục vụ xuất khẩu. Góp phần tiêu thụ nguyên liệu chè tươi cho người dân, từ đó mở rộng, phát triển diện tích trồng chè tại địa phương. 
Chè là một trong những cây trồng chủ lực ở nhiều địa phương trên cả nước. Các sản phẩm chè Việt Nam không chỉ phục vụ tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu đến nhiều thị trường trên thế giới. Vì vậy, nhiều địa phương đang ưu tiên sản xuất chè theo hướng hữu cơ; ứng dụng chuyển đổi số, phát triển hạ tầng logistics để kết nối giữa sản xuất, chế biến, bảo quản và phát triển thị trường tiêu thụ các sản phẩm chè…
Sản phẩm chè của Việt Nam đã xuất khẩu tới 74 quốc gia và vùng lãnh thổ (Ảnh: nhandan.vn)
Tuy nhiên, đến nay chưa có nhà máy hoặc công ty nào ứng dụng công nghệ cao, tự động hóa trong dây chuyền chế biến một cách đồng bộ. Một số ít công ty có ứng dụng các thiết bị tự động hóa (Biến tần, sen sơ...) vào một số khâu trong dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên việc áp dụng này còn đơn lẻ cho từng máy, thiếu đồng bộ, chưa thành hệ thống.
Do đó, Bộ Công Thương đã phê duyệt và giao Công ty cổ phần Trà Than Uyên thực hiện đề tài "Ứng dụng công nghệ tự động hóa trong quá trình sản xuất nguyên liệu và quá trình sản xuất, chế biến chè xanh sao lăn chất lượng cao tại công ty cổ phần trà Than Uyên". Đề tài thuộc Chương trình Phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 347/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2013.
Đề tài được thực hiện nhằm triển khai thành công hệ thống quan trắc tự động các yếu tố môi trường để giám sát và điều khiển sự tăng trưởng của cây chè trên diện tích sản xuất nguyên liệu chè chất lượng cao 80ha. Đồng thời, nghiên cứu tích hợp các công đoạn chế biến chè thành dây chuyền sản xuất đồng bộ, từ đó xây dựng hệ điều khiển tự động hóa dây chuyền theo module để sản xuất chè sao lăn chất lượng cao; Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm chè xanh xao lăn phục vụ xuất khẩu. Góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân các dân tộc khu vực huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu.” CN Vũ Hoàng Mạnh - chủ nhiệm đề tài cho biết.
Nhà máy chế biến chè của Công ty cổ phần Trà Than Uyên (Ảnh: MOIT)
Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài tiến hành nghiên cứu thiết kế chế tạo được 01 dây chuyền thiết bị đồng bộ theo module sản xuất, chế biến chè xanh sao lăn công suất 1.000 tấn chè khô/năm. Dây chuyền gồm 02 module, công suất mỗi module đạt 25 tấn chè tươi/ngày. Dây chuyền được điều khiển tự động hóa gồm các công đoạn: bảo quản chè tươi; hấp chè;làm khô bề mặt lá chè sau hấp; sơ đảo; đảo miết; vò chè; sấy chè; xao lăn;  làm nguội; phân loại sản phẩm; đấu trộn; đóng bao.
Hệ thống tự động hoá hoàn chỉnh đầu tiên tại Việt Nam
Sau hai năm triển khai thực hiện, đề tài đã xây dựng chế tạo phát triển hệ thống quan trắc nghiên cứu khí tượng nông nghiệp khu vực phục vụ xây dựng mô hình trồng chè theo hướng hữu cơ (bao gồm cả phần cứng, phần mềm) có khả năng giám sát, điều khiển tự động quá trình sản xuất nguyên liệu chè đạt chất lượng theo chuẩn quan trắc của Việt Nam và tổ chức khí tượng thế giới. Theo tiêu chuẩn QCVN-46-2012 về quan trắc khí tượng.
Đồng thời, phát triển được mô hình dự báo khí tượng phục vụ nông nghiệp qua việc sử dụng số liệu nhiều nguồn (mô hình, bóng thám không, vệ tinh viễn thám đời mới). Đã xây dựng được mô hình thời tiết WRF vào trong dự báo, mô phỏng các trường khí tượng tại khu vực nông trường chè Than Uyên và các khu vực lân cận. Kết quả dự báo này phục vụ cho công tác chăm sóc chè. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống tưới tự động, bón phân và thuốc bảo vệ thực vật cho diện tích 2 ha tại Than Uyên.
Dây chuyền vò chè (Ảnh: MOIT)
Ngoài ra, đề tài cũng đã nghiên cứu, thiết kế chế tạo được một hệ thống tự động hóa hoàn chỉnh, hiện đại, có mức độ tự động hóa cao cho dây chuyền sản xuất chế biến chè xanh xao lăn chất lượng cao; Cũng như xác lập được một quy trình sản xuất mới sản phẩm là chè xanh sao lăn chất lượng cao mang thương hiệu Than Uyên, từ khâu canh tác nông nghiệp, làm cỏ bón phân, bảo vệ thực vật, thu hái đến bảo quản chế biến phân loại và đóng bao sản phẩm một cách đồng bộ.
Kết quả đề tài góp phần tiêu thụ nguyên liệu chè tươi cho người dân từ đó mở rộng, phát triển diện tích trồng chè theo đề án “Phát triển vùng nguyên liệu chè tập trung, chất lượng cao” tại tỉnh Lai Châu, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân các dân tộc khu vực huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu.
Sản phẩm chè xanh xao lăn (Ảnh: MOIT)
Theo đánh giá, sản phẩm của đề tài là hệ thống tự động hóa hoàn chỉnh đầu tiên tại Việt Nam do các chuyên gia trong nước thiết kế chế tạo cho dây sản xuất chế biến chè xanh xao lăn chất lượng cao. Hệ thống tự động hóa có nhiều tính sáng tạo (không sao chép giải pháp của nước ngoài) nhằm giảm giá thành, sử dụng các thiết bị thông dụng.
Hiện tại, hệ thống đã được ứng dụng thực tế tại Công ty Cổ phần trà Than Uyên đem lại hiệu quả thực sự cho doanh nghiệp. Hệ thống có thể nhân rộng cho nhiều doanh nghiệp chế biến chè trong nước cũng như có thể cải tiến để áp dụng cho các ngành chế biến khác .
Theo báo cáo của Hiệp hội chè Việt Nam, Việt Nam hiện đứng thứ năm trên thế giới về diện tích trồng chè và thứ sáu trong bảng xếp hạng về sản lượng chè trên toàn thế giới. Hiện Việt Nam có 34 tỉnh, thành phố trồng chè, với tổng diện tích lên đến 130 nghìn ha, sản lượng đạt 1,02 triệu tấn chè búp tươi/năm, quy ra sản lượng chè khô đạt 196 nghìn tấn (năm 2022). Sản phẩm chè của Việt Nam đã xuất khẩu tới 74 quốc gia và vùng lãnh thổ, chủ yếu là các thị trường như Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia…
Tố Uyên



lên đầu trang