Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ bảy, 18/05/2024 | 22:59

Thứ bảy, 18/05/2024 | 22:59

Năng suất chất lượng

Cập nhật lúc 08:41 ngày 05/06/2014

Định vị năng suất ngành Than trong tương lai

Theo Quy hoạch phát triển ngành Than đến năm 2020 có xét triển vọng đến năm 2030, Vinacomin sẽ sản xuất trên 75 triệu tấn than cho nền kinh tế, gấp gần 2 lần sản lượng hiện nay.
 
 
Đây đúng là một thách thức, một mục tiêu táo bạo yêu cầu ngành Than cần có những bứt phá lớn về năng suất chất lượng, đồng thời cũng là đảm bảo sự phát triển bền vững của Tập đoàn trong tương lai.

Định hướng từ những con số cụ thể

Khi lập quy hoạch phát triển ngành, Vinacomin đã tính toán xác định chi tiết nhu cầu cả về sản lượng và mục tiêu. Theo đó, sản lượng quy hoạch đến 2030 đã được Chính phủ phê duyệt, sản lượng than thương phẩm sản xuất toàn ngành trong các giai đoạn như sau: năm 2015: 45 - 50 triệu tấn; năm 2020: 55 - 60 triệu tấn; năm 2030: 65 - 70 triệu tấn.

Dựa trên những con số định lượng cụ thể, Vinacomin cũng đặt ra mục tiêu phát triển ngành Than là phải đạt được các tiêu chí khai thác, chế biến, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên than của đất nước, nhằm phục vụ nhu cầu trong nước là chủ yếu, đóng góp tích cực, hiệu quả vào việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Việc xuất, nhập khẩu than phải đảm bảo hợp lý theo hướng giảm dần xuất khẩu và chỉ xuất khẩu các chủng loại than trong nước chưa có nhu cầu sử dụng thông qua biện pháp quản lý bằng kế hoạch và các biện pháp điều tiết khác phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Đặc biệt chú trọng phát triển ngành Than bền vững, hiệu quả theo hướng đồng bộ, phù hợp với sự phát triển chung của các ngành kinh tế khác. Phát huy tối đa nội lực (vốn, khả năng thiết kế, chế tạo thiết bị trong nước v.v…) kết hợp mở rộng hợp tác quốc tế, trước hết trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ tiến bộ trong thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng than; đầu tư thỏa đáng cho công tác bảo vệ môi trường, an toàn lao động, quản trị tài nguyên, quản trị rủi ro trong khai thác than. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động điều tra cơ bản, thăm dò, đánh giá tài nguyên và trữ lượng than nhằm chuẩn bị cơ sở tài nguyên tin cậy cho sự phát triển ổn định, lâu dài của ngành.

Khi ngành Than phát triển với tốc độ cao như vậy, đòi hỏi phải có một lượng vốn khá lớn, lên đến hàng chục ngàn tỷ mỗi năm. Đây là một thách thức không nhỏ trong điều kiện nền kinh tế có nhiều diễn biến xấu như hiện nay. Do vậy, để đảm bảo có nguồn vốn cho phát triển, Vinacomin chủ trương đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh. Tức là xã hội hoá các nguồn lực đầu tư cho sản xuất. Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phải trên cơ sở doanh nghiệp do Nhà nước chi phối đóng vai trò chủ đạo. Đây là cơ sở và là hướng đi vững chắc để Vinacomin thực hiện được mục tiêu của mình. Hiện nay, Vinacomin đã có một số dự án huy động nguồn vốn xã hội khá thành công như: tuyến băng tải cấp than cho nhà máy Nhiệt điện Mạo Khê, một số dây chuyền tuyển than…

Ngoài ra, trong chiến lược, phát triển ngành Than luôn gắn liền với bảo vệ, cải thiện môi trường sinh thái tại vùng than, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng trên địa bàn này.

Đổi mới dựa vào công nghệ

Trên thực tế, tốc độ phát triển của Vinacomin trong những năm qua đã là dẫn chứng cụ thể khẳng định, Vinacomin đưa ra mục tiêu, phương hướng của mình là hoàn toàn phù hợp. Để việc khai thác than đạt hiệu quả cao nhất, chỉ trong vòng chưa đầy thập kỷ qua, Vinacomin đã đưa hàng loạt dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại vào lĩnh vực khai thác và chế biến than. Các dây chuyền này không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giúp giảm thiểu tác động xấu đến môi trường sinh thái.

Đột phá quan trọng nhất là Vinacomin đã chuyển từ vì chống gỗ trong hầm lò sang vì chống thủy lực trong khai thác than, góp phần giảm tổn thất tài nguyên, tăng sản lượng một lò chợ từ 50 - 60 ngàn tấn lên 150 - 200 ngàn tấn/năm, có nơi đạt trên 200 ngàn tấn/năm. Nhiều lò chợ cơ giới hóa đồng bộ đã đạt 300 - 400 ngàn tấn/năm. Bên cạnh đó, việc đưa hệ thống kiểm soát khí cháy nổ khí mêtan vào trong hầm lò đã giúp các mỏ hầm lò làm chủ việc đánh giá hàm lượng khí mêtan trong các vỉa than, kiểm soát, phân tích thông gió và quan trắc khí mỏ hầm lò.

Đồng thời, việc hình thành Trung tâm An toàn mỏ đã giúp ngành Than đưa trình độ công nghệ quản lý khí mỏ của Vinacomin sánh ngang tầm với các nước trong khu vực. Nhờ đó, việc xác định độ chứa khí mêtan trong các vỉa than đã được thực hiện tại tất cả các mỏ và được phân loại theo mức độ nguy hiểm về khí. Hàng loạt hệ thống tự động quan trắc khí mêtan tập trung đã được thiết kế, lắp đặt và đưa vào hoạt động ở hầu hết các mỏ hầm lò và được kết nối với mạng Internet để giám sát từ xa. Hệ thống tháo khí mêtan trong vỉa than đã được đưa vào hoạt động tại một số đơn vị hiệu quả.

Và hiện nay, để đưa quy hoạch trở thành hiện thực, Vinacomin đang tích cực chỉ đạo các đơn vị thực hiện dứt điểm một số nhiệm vụ KHCN mang tính đột phá. Khẩn trương triển khai một số dự án mở mỏ hầm lò mới như: Khe Chàm II-IV, Khe Chàm III, mỏ hầm lò Núi Béo... Các mỏ than tại vùng Quảng Ninh, Vinacomin chỉ đạo đẩy mạnh cơ giới hóa khấu than trong lò chợ để từ nay đến năm 2015, ở mỗi mỏ có từ 1 - 2 lò chợ cơ giới hóa với công suất cao.

Để có lời giải cho việc khai thác than đồng bằng sông Hồng, Vinacomin đang nghiên cứu thử nghiệm công nghệ đào chống và khấu than trong điều kiện đất đá mềm yếu, sự ảnh hưởng của nước mặt và nước sông Hồng đến các công trình mỏ cũng như vấn đề suy thoái nước mặt và nước ngầm, sụt lún bề mặt đất và bảo vệ đồng ruộng, hoa màu và các công trình bề mặt… Đây là một trong những tiền đề vững chắc để Vinacomin thực hiện thành công đề án phát triển của mình trong 10 - 15 năm tới đây, để đảm bảo sản lượng cũng như chất lượng của nguồn than theo quy hoạch đề ra phục vụ phát triển nền kinh tế đất nước.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, Vinacomin còn rất nhiều việc cần phải làm. Trong đó gồm:

- Mức độ tin cậy tài nguyên, trữ lượng còn thấp, để lập dự án đầu tư mỏ mới cần thiết phải khoan thăm dò bổ sung, nâng cấp trữ lượng. Công việc này đòi hỏi nhiều thời gian và kinh phí như các dự án khai thác -150 mỏ Mạo Khê, Dự án dưới - 131 mỏ Đồng Vông v.v...

- Đồng thời các đơn vị làm công tác địa chất thăm dò cần tái cơ cấu để đảm bảo hoạt động hiệu quả hơn, không nên để nhỏ lẻ như hiện nay.

- Cần đẩy nhanh việc làm thủ tục tháo gỡ vùng cấm hoạt động khai thác khoáng sản, để đảm bảo tiến độ đầu tư các dự án. Việc này đòi hỏi Bộ Tài nguyên và Môi trường, các địa phương tạo điều kiện cùng giải quyết.

- Cần đẩy nhanh việc nghiên cứu lựa chọn các giải pháp, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong khai thác than hầm lò, để tăng năng suất, tận thu được tài nguyên và đảm bảo an toàn cho người lao động.

- Tổ chức triển khai theo Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đến 2015 và tầm nhìn đến 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 314/QĐ-TTg ngày 07/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ, để nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.

Theo Tạp Chí Công Thương 

 

lên đầu trang