Khoa học công nghệ ngành Công Thương

Thứ sáu, 10/05/2024 | 01:36

Thứ sáu, 10/05/2024 | 01:36

Chính sách

Cập nhật lúc 15:57 ngày 13/10/2015

Tận dụng ưu đãi trong Hiệp định thương mại tự do Asean-Úc-Niu-di-lân

Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Úc - Niu Di Lân (AANZFTA) được thực thi hơn 5 năm. Mức tận dụng ưu đãi của Việt Nam trong Hiệp định để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Úc và Niu Di Lân tăng lên hàng năm, nhưng vẫn ở mức thấp khi so sánh với một số nước ASEAN như Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po…

Hiệp định AANZFTA được ký vào ngày 27/02/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa ASEAN và Úc, Niu Di Lân. Hiệp định bao gồm các cam kết về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư… Nội dung quan trọng nhất của Hiệp định là các nước cam kết cắt giảm thuế quan từ 90-100% các dòng thuế theo lộ trình từ năm 2010 đến năm 2020.

Úc và Niu Di Lân là hai thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở khu vực châu Đại Dương. Hai thị trường có nhu cầu nhập khẩu cao những mặt hàng xuất khẩu có lợi thế của nước ta như: hàng rau quả, thủy sản, dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ… Đây là những mặt hàng được hưởng nhiều ưu đãi về thuế trong AANZFTA. Sau hơn 5 năm thực thi Hiệp định, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang hai nước có mức tăng trưởng 11,10%/năm, cao hơn so với giai đoạn trước khi thực thi Hiệp định -2,69%/năm. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân có tận dụng ưu đãi từ Hiệp định chỉ chiếm 19,54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang hai thị trường giai đoạn 2010-2014.

Thực trạng tận dụng ưu đãi trong AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân giai đoạn 2010-2014

Ngay sau khi AANZFTA có hiệu lực, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã triển khai các hoạt động hợp tác với các cơ quan chức năng của Úc và Niu Di Lân để tận dụng những ưu đãi phi thuế quan: Nâng cao năng lực về SPS (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn triển khai); Quy tắc xuất xứ (Bộ Công Thương); TBT (Văn phòng TBT Việt Nam); Thông quan điện tử (Tổng cục Hải quan). Những ưu đãi phi thuế quan trong Hiệp định mà Việt Nam tận dụng được giúp cho nước ta đáp ứng các điều kiện để được hưởng ưu đãi về thuế quan. Hàng Việt Nam xuất khẩu sang hai thị trường muốn được hưởng ưu đãi về thuế quan phải xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Mọi thông tin liên quan đến thực hiện quy tắc xuất xứ thuộc Hiệp định đều có ở Thông tư số 33/2009/TT-BCT ngày 11/11/2009 và 10 phụ lục kèm theo Thông tư. 10 phụ lục hướng dẫn rất chi tiết cho doanh nghiệp hiểu được thế nào là xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định, cách khai giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), cách thức để xin được C/O…

Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân chỉ sử dụng một mẫu C/O duy nhất là AANZ vì Việt Nam chưa ký hiệp định thương mại tự do song phương với hai quốc gia này. Mức độ tận dụng ưu đãi trong AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang hai thị trường này sử dụng form AANZ (xem Bảng 1).

Số liệu ở Bảng 1 cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Úc và Niu Di Lân tận dụng ưu đãi trong AANZFTA tăng lên hàng năm, mức tăng trưởng bình quân 47,04%/năm giai đoạn 2010-2014. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân tận dụng ưu đãi ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu sang hai thị trường này từ 8,84% năm 2010 lên 18,77% năm 2012 và lên tới 27,11% năm 2014.

Những kết quả đạt được của việc tận dụng ưu đãi trong AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân

Thứ nhất, mức  tận dụng ưu đãi trong Hiệp định để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân ngày càng tăng. Điều này thể hiện ở tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sử dụng form C/O AANZ trong kim ngạch xuất khẩu sang hai thị trường và trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng lên hàng năm (xem Bảng 1).

Thứ hai, nhìn chung các mặt hàng được hưởng nhiều ưu đãi thuế theo AANZFTA có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang Úc và Niu Di Lân trong 5 năm sau khi thực hiện Hiệp định cao hơn so với 5 năm trước khi thực hiện Hiệp định. Chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng 31,91%/năm giai đoạn 2010-2014, cao hơn so với giai đoạn 2005-2009 chỉ đạt 3,81%/năm, tương tự giày dép là 30,29%/năm và 9,77%/năm, gỗ và sản phẩm gỗ 18,22%/năm và 9,30%/năm. 

Thứ ba, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã và đang tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu về thị trường Úc và Niu Di Lân, nội dung AANZFTA, những thông tin mới về Hiệp định (Nghị định thư sửa đổi Hiệp định, biểu thuế HS 2012...), cách thức để tận dụng hiệu quả những ưu đãi trong Hiệp định và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của khu vực, toàn cầu;  Tận dụng ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang hai thị trường này (tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong khâu làm thủ tục xin cấp C/O và thông quan hàng hóa).

Những hạn chế của việc tận dụng ưu đãi trong AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân

Thứ nhất, mức tận dụng ưu đãi trong AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Úc và Niu Di Lân còn thấp khi so sánh với một số Hiệp định thương mại tự do ASEAN+ khác. Mức độ tận dụng ưu đãi từ AANZFTA trong tổng trị giá theo C/O giai đoạn 2010-2014 là 3,65%, trong khi đó Khu vực Thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA), Khu vực Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP) là 24,12%, 18,81% và 17,30%.

Thứ hai, mức tận dụng ưu đãi của Việt Nam trong Hiệp định tăng lên hàng năm, nhưng vẫn còn thấp khi so sánh với một số nước ASEAN khác. Cụ thể, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Úc và Niu Di Lân có tận dụng ưu đãi trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang hai thị trường này giai đoạn 2010-2014 là 19,54%, trong khi đó của Thái Lan, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po là 33,05%, 31,84% và 34,46%.

Thứ ba, Việt Nam mới chủ yếu tận dụng được ưu đãi thuế quan (ưu đãi trong lĩnh vực thương mại hàng hóa), ưu đãi phi thuế quan (ưu đãi trong các lĩnh vực khác như quy tắc xuất xứ, SPS, TBT...) tận dụng còn hạn chế.

Nguyên nhân của những hạn chế trong việc tận dụng ưu đãi từ AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Úc và Niu Di Lân

Chính sách thương mại và thuế của Úc, Niu Di Lân khá minh bạch, nhưng hàng rào phi thuế quan chặt chẽ. Tất cả các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu phải tuân thủ theo quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm do Bộ Y tế đưa ra. Hàng nông sản phải tuân thủ quy định về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (SPS). Sản phẩm công nghiệp cần tuân thủ theo các quy định về hàng rào kỹ thuật (TBT). Nhìn chung các mặt hàng nhập khẩu đều phải tuân thủ theo các quy định về bao gói, nhãn mác.

 Đáp ứng yêu cầu của việc hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới, nước ta đã cải cách đáng kể thủ tục hành chính và thủ tục xuất nhập khẩu để tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước. Tuy nhiên, thủ tục hành chính, chi phí  để xin cấp giấy chứng nhận xuất xứ, thông quan hàng hóa còn phức tạp, mất thời gian và tốn kém. Chẳng hạn, thời gian thông quan và kiểm soát kỹ thuật, xếp hàng tại cảng của Việt Nam mất 8 ngày, trong khi đó Thái Lan chỉ mất 4 ngày, Ma-lai-xi-a mất 3 ngày và Xin-ga-po mất 2 ngày. Thời gian chuẩn bị chứng từ xuất khẩu của Việt Nam mất 12 ngày, còn của Thái Lan, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po chỉ mất 8 ngày, 4 ngày và 2 ngày.

 Việt Nam vẫn chưa xây dựng được một hệ thống các cơ quan quản lý và chứng nhận chất lượng đạt chuẩn từ trung ương tới địa phương, hiện đang xây dựng tiêu chuẩn cho hàng hóa và hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế. Năng lực của các cơ quan quan quản lý chất lượng còn yếu. Máy móc thiết bị kiểm tra lạc hậu nên kết quả kiểm tra trong một số trường hợp chưa chính xác. Công tác quản lý chất lượng hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm còn lỏng lẻo từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm. Dẫn tới hàng xuất khẩu vẫn vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của Úc. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hàng xuất khẩu Việt Nam khó đáp ứng yêu cầu về SPS, TBT theo AANZFTA để có thể tận dụng ưu đãi.

Một số giải pháp chủ yếu tận dụng ưu đãi trong AANZFTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Úc và Niu Di Lân

Giải pháp về phía chính phủ  

Tiếp tục triển khai các việc cần làm để tận dụng ưu đãi trong AANZFTA

Tiến hành các thủ tục trong nước và ngoài nước để thực hiện Nghị định thư sửa đổi Hiệp định (Nghị  định thư dự kiến có giá trị hiệu lực vào ngày 31/3/2015): chuyển đổi biểu thuế từ AHTN2007 sang AHTN2012, ban hành các văn bản thực thi;

Triển khai nhanh và hiệu quả các việc cần làm tiếp theo liên quan đến việc thực thi Nghị định thư sửa đổi Hiệp định (phổ biến Nghị định thư sửa đổi Hiệp định và Biểu thuế mới tới các Hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp, ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi Nghị định thư…);

Chỉ đạo các cơ quan thương vụ ở nước ngoài nắm tình hình điều chỉnh về chính sách của Úc, Niu Di Lân và phản ánh  kịp thời về Bộ Công Thương để có hướng giải quyết, liên hệ với các cơ quan hữu quan, các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp có biện pháp xử lý.

Nâng cao hiệu quả triển khai AANZFTA

Tăng cường hợp tác giữa các đối tác trong Hiệp định và đẩy mạnh tự do hóa thương mại trong khu vực: Các cơ quan chức năng thường xuyên đánh giá tác động của Hiệp định trong việc thúc đẩy trao đổi thương mại với các đối tác, từ đó đưa ra các đề xuất cùng với các đối tác hài hòa hóa các tiêu chuẩn, tháo dỡ các rào cản và tăng cường hơn nữa tự do hóa thương mại trong khu vực; Đề xuất với phía Úc và Niu Di Lân áp dụng cơ chế “Doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ”, vừa tiết kiệm được thời gian và chi phí xin C/O tạo thuận lợi thương mại. Đối với những lô hàng xuất khẩu có trị giá nhỏ, doanh nghiệp rất ngại đến các tổ chức xin cấp C/O, áp dụng cơ chế này sẽ tăng tỷ lệ tận dụng C/O trong xuất khẩu hàng hóa sang hai thị trường cao hơn.

Hỗ trợ, hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc tiếp cận và giành được ưu đãi theo Hiệp định: Hợp tác và phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp trong quá trình triển khai Hiệp định. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tận dụng ưu đãi từ Hiệp định để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Úc và Niu Di Lân; Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về Hiệp định đến cộng đồng doanh nghiệp để họ nắm được nội dung Hiệp định, những cam kết về thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, yêu cầu về SPS, TBT, những ưu đãi và cách thức được hưởng ưu đãi từ Hiệp định đối với hàng xuất khẩu sang Úc và Niu Di Lân.

Nâng cao năng lực ứng phó với hàng rào phi thuế quan của Úc và Niu Di Lân

Xây dựng hệ thống các cơ quan quản lý và chứng nhận chất lượng đạt chuẩn từ trung ương đến địa phương, tiêu chuẩn cho hàng hóa và hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế theo kinh nghiệm của Thái Lan, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Kiểm soát chặt chẽ từ khâu nguyên liệu tới thành phẩm. Chú trọng nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý chất lượng thông qua đào tạo nguồn nhân lực và nâng cấp, trang bị máy móc hiện đại để có kết quả kiểm tra chính xác, tương thích với các nước phát triển.

Tận dụng tối đa Chương trình hỗ trợ về tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự phù hợp (STRACAP) nằm trong các hỗ trợ của Úc và Niu Di Lân cam kết giúp các nước ASEAN trong Hiệp định để nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp đáp ứng hàng rào kỹ thuật và kiểm định, kiểm dịch của Úc và Niu Di Lân. Việt Nam thuộc nhóm CLMV (bốn nước có nền kinh tế kém phát triển nhất trong ASEAN) được hưởng ưu đãi hơn so với các nước ASEAN-6, nên chúng ta tận dụng cơ hội này để nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng và doanh nghiệp trong việc đáp ứng tiêu chuẩn SPS, TBT theo AANZFTA.

Các cơ quan chức năng của Việt Nam cần chủ động thiết lập quan hệ hợp tác với các cơ quan chức năng của Úc và Niu Di Lân để giải quyết sự khác biệt trong các tiêu chuẩn áp dụng cho hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai bên (đặc biệt là các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kiểm dịch động thực vật) cũng như ký kết các văn bản cần thiết nhằm xuất khẩu hàng hóa Việt Nam, nhất là nông sản sang hai thị trường này.

Đẩy nhanh quá trình công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và kiểm tra với Úc và Niu Di Lân để cho hàng xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt là hàng nông thủy sản thuận lợi trong việc thâm nhập hai thị trường này.

Giải pháp về phía doanh nghiệp  

Tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu thông tin về AANZFTA và những ưu đãi mà hàng xuất khẩu Việt Nam được hưởng

Doanh nghiệp cần tích cực và chủ động trong việc tìm hiểu thông tin về Hiệp định, Nghị định thư sửa đổi Hiệp định, cập nhật và nắm được lộ trình cắt giảm thuế của Úc và Niu Di Lân theo Hiệp định, tìm hiểu các tiêu chí chuyển đổi mã hàng hóa, công đoạn gia công chế biến cụ thể, cũng như các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành chức năng liên quan đến việc thực thi Hiệp định.

Doanh nghiệp xuất khẩu cần tra cứu phụ lục thuế  để xem mặt hàng xuất khẩu của mình được giảm thuế như thế nào theo Hiệp định. Dựa vào mức thuế ưu đãi và xuất xứ nguyên liệu để khai và xin C/O form AANZ qua các tổ chức cấp C/O của Việt Nam.

Đẩy mạnh xuất khẩu sang Úc và Niu Di Lân những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế và được hưởng nhiều ưu đãi theo AANZFTA

Để đẩy mạnh xuất khẩu và gia tăng thị phần trên thị trường Úc và Niu Di Lân, các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh xuất khẩu sang hai thị trường những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế và được hưởng nhiều ưu đãi trong Hiệp định như: Rau quả và rau quả chế biến, thiết bị điện tử, cao su và sản phẩm cao su, nhựa và sản phẩm nhựa, hàng dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, sắt và sản phẩm sắt, túi sách ví va li mũ ô và dù, hạt tiêu, sản phẩm gốm sứ, sản phẩm mây tre cói thảm. Các doanh nghiệp cần tìm hiểu thật kỹ nội dung của Hiệp định, lộ trình cắt giảm thuế của Úc và Niu Di Lân, từng điều khoản đối với lĩnh vực mình quan tâm nhằm tận dụng được những ưu đãi trong Hiệp định để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang hai thị trường này.

Nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu 

Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường Úc và Niu Di Lân. Việc thực thi AANZFTA, đồng nghĩa với cánh cửa hai thị trường đang mở ra cho hàng Việt Nam (mở ra đối với hàng rào thuế quan, nhưng khép lại đối với hàng rào phi thuế quan, vì hàng rào thuế quan đang giảm mạnh còn hàng rào phi thuế quan đang có xu hướng nâng cao). Vấn đề đặt ra, hàng Việt Nam có vào được hai thị trường hay không phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố đầu tiên là doanh nghiệp có tạo ra được sản phẩm tốt với giá thành hợp lý hay không.Tiếp theo là hàng hóa phải phong phú đa dạng thì mới đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng với thu nhập khác nhau, vì hàng hóa đơn điệu sẽ rất khó thâm nhập và chiếm lĩnh hai thị trường này.

Chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi trường. Trở ngại lớn nhất hiện nay là hàng Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu cầu kiểm nghiệm chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chặt chẽ của Úc, Niu Di Lân. Để khắc phục tình trạng này, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khỏe, môi trường. Các doanh nghiệp nên áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000, HACCP và ISO 14000 để làm nền tảng cho việc vượt qua rào cản SPS, TBT của Úc và Niu Di Lân. Khi các doanh nghiệp quản lý chất lượng hàng hóa theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế, thì hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ thâm nhập thị trường Úc và Niu Di Lân thuận lợi hơn.

 ThS. Phùng Thị Vân Kiều

Viện Nghiên cứu Thương mại

lên đầu trang